Cảm Nghĩ Về Bốn Mùa
(Nhân
chủ đề đặc san Xuân Ất Mùi 2015:HẢI NGOẠI &
BẢO TỒN QUÊ HƯƠNG của Hội Ái Hữu Gò Công –Nam Cali-USA)
*Trung
Đạo NVN
Mùa thu ở Âu Châu khí trời se lạnh và sương mù
đã bắt đầu giăng phủ khắp đó đây. Thường thì sương phủ mịt mờ vào những buổi
sáng tinh sương kéo dài cho đến khi mặt trời lên hay đôi lúc còn dày đặc cho đến
khi mặt trời đứng bóng. Sương cũng thường khi xuất hiện vào những buổi chiều
tàn trước khi hoàng hôn phủ chụp. Nếu ai đã từng dong ruổi đường xa, băng qua
những cánh đồng bát ngát vào những buổi chiều tà, tất sẽ có cơ hội dõi mắt xa
xa ngắm từng cụm sương mờ bao phủ cỏ cây, dấu che từng khóm nhà đang lẫn khuất
dưới sương, lúc ráng chiều đang dần dần khuất bóng. Thật là một nét đẹp nhẹ nhàng
mờ ảo như sương!
Sương còn là biểu tượng cho sự phù du của cõi
thế, mà ngàn năm trước nơi Cõi Việt, có một vị thiền sư đã từng dặn bảo chúng đệ
tử rằng: „Nhậm
vận thịnh suy vô bố úy- Thịnh suy như lộ thảo đầu phô“, đại ý :
„Sợ gì suy thịnh
thế gian- Thịnh suy như cỏ bên đàng treo sương!“. Thật là thâm
thúy và đáng ngẫm nghĩ thay! (Quốc sư Vạn Hạnh đời Lý, khoảng năm 1018)
Ngoài ra, tôi
cũng đã từng chạy chầm chậm trong sương mù vào những buổi sáng với đèn pha và
đèn chống sương mù vì chỉ thấy lờ mờ đèn xe phía trước. Nhưng cũng may, sự mờ mịt
này cũng chỉ đòi hỏi hết sức thận trọng trên một đoạn ngắn mà thôi, chớ không
chí suốt cả một quảng đường xa. Vì vậy mù sương cũng mang đến cho con người, đặc
biệt là cho tôi có những phút giây căng thẳng tuyệt vời những khi có dịp đắm
mình trong sương phủ, rồi sau đó là cảm giác thở phào nhẹ nhõm khi thoát qua được
vùng sương mù che kín lối đi. Không giống với cảm giác sảng khoái, thân thương,
thích thú của lần đầu tiên xuống xe để đắm mình trong sương trên đỉnh đèo Hải
Vân của Việt Nam ta, còn được mệnh danh là „Nam Thiên Đệ Nhất Hùng Quan“ trong
thời chiến loạn. Lần thứ hai cách đây chừng 20 năm, khi có dịp đi qua và nán lại
giây phút để thưởng thức cảnh thiên nhiên hùng vĩ này của quê ta, mặc dù thời
tiết lúc đó khoảng chừng tháng năm tháng sáu.
Một đặc điểm
khác của mùa thu là mưa cũng thường mang đến cho thế nhân những ai hoài cảm
khái miên man, như những cơn mưa dài rả rích được ngồi trên xe khách lặng ngắm
ruộng vườn mộc mạc hẻo lánh nơi quê ta, ngắm trâu bò núp mưa trong chuồng hoặc
dưới lùm cây, ngắm những trẻ con cởi truồng chạy giỡn tắm mưa, hoặc những cây
rơm, tàu chuối dầm mình trong mưa. Riêng tôi cũng đã từng có những cảm giác sảng
khoái tuyệt vời dưới mưa. Đã từng một mình một xe không mui, bình thản lao
nhanh về phía trước để rút ngắn quảng đường xa mặc cho gió mưa dần thấm lạnh.
Có lúc cùng người nghĩa đệ thân yêu từ rừng về rẫy, vừa đối thơ vừa rảo bước
trong một buổi trời chiều giông to gió lớn nơi núi rừng Phú Mỹ.
Và cũng thật khó
quên một buổi trời chiều mưa dông xối xả, ngồi núp hờ dưới một chòi canh nhỏ để
ôm đứa cháu vào lòng tránh mưa, và sau đó mạo hiểm đầu trần đội mưa chạy băng
ra đường cái, chờ đón xe quá giang về Biên Hòa từ trại tù Suối Máu nhân lần đưa
người chị dâu và đứa cháu ruột đi thăm ông anh vào những tháng năm dài sau cơn
đổi đời bi thảm. Lần đó thật khó thể nào quên tấm tình người muôn thuở, sâu xa
hơn là tấm lòng trượng nghĩa nhân đức của một đôi vợ chồng trẻ đã chẳng những
không ngại mưa to gió lớn và quảng đường rừng vắng vẻ dừng lại chờ đón chúng
tôi cùng một gia đình khác có người mẹ dắt bầy con lủ khủ khoảng 4-5 trẻ nheo
nhóc đi thăm chồng, để đưa về phố thị, mà còn mời về nhà cho mượn đồ thay để sưởi
ấm, nấu cơm cho ăn và thu dọn chỗ cho nghỉ lại qua đêm… Quả là một cơn mưa to
nhuận thắm tình người, đã in sâu trong lòng tôi trước một tình cảnh hết sức ngặt
nghèo!. Nhưng đó không phải chỉ là lần duy nhất, chắc chắn đối với mọi người và
đặc biệt với riêng tôi, mưa còn chập chùng muôn vàn kỷ niệm.
Nhưng bâng
khuâng nhất vẫn là những chiếc lá thu vàng rực rỡ trên chòm cây ngọn cỏ dưới trời
sương, trong nắng sớm, hay dưới những cơn mưa buồn thấm lạnh tại Âu Châu. Lá
vàng được chuyển hoá từ những nụ mầm, và từ những chiếc lá xanh tươi mát, tràn
đầy sức sống, vừa lặng lẽ trước những ngọn gió đông buốt giá, vừa lâng lâng
vươn vượt chào đón gió xuân, vừa ngạo nghễ dưới những tia nắng hè chói chang, để
rồi sau một thời gian khá dài phe phẩy đã đến lúc phải từ từ lìa cành, rụng rơi
lác đác từng ngày theo với định luật tuần hoàn của tạo vật. Nhưng dù vậy, khác
hẵn với sương mù tan trong vô hình, giọt mưa thấm sâu vào lòng đất, lá vàng chỉ
thỉnh thoảng tung bay cợt đùa với gió, còn thường thì phủ ngập đầy sân, chung
quanh cội gốc, đã vô hình chung đưa ra được một hình ảnh đạo lý tuyệt vời: Lá rụng về cội
để sưởi ấm tâm tình nhân sinh trong mùa đông băng giá.
Những buổi sáng
thu lặng nhìn lá rụng, mà bồi hồi cho thân phận mình cũng như cho đàn chim Việt
đang tung cánh khắp bốn phương trời tạm dung, mà ai đó dù đang soải cánh hay
đang mỏi cánh có còn nhớ chăng :Việt Điểu Nam
Sào ?! Có còn thời gian lặng ngắm lá vàng rơi rụng, và những thao thức
làm sao để cho lá
được rụng về cội một cách đúng nghĩa và thiêng liêng nhất hay
không?! Nhất là có bao giờ nghĩ tới hay được nghe kể về 2 câu thơ đề trên bia mộ
72 Liệt sĩ Trung Hoa tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu và trên đó có mộ phần Liệt
sĩ Phạm Hồng Thái với nguyên văn: „Lạc hồng bất thị
vô tình vật- Hóa tác xuân nê cánh bộ hoa“?! Đại ý là :“cánh hoa tàn
rơi xuống đất, không phải vô tình mà rớt xuống, nó còn muốn tự biến thành phân
bón cho những bông hoa khác mọc lên trong mùa xuân mới“*. Một
chiếc lá rụng, một đóa hoa rơi mà còn ẩn tàng một đạo lý tuyệt vời như thế, huống
chi một kiếp con người như chúng ta, đáng ngẫm nghĩ chăng !! *(Theo Vương Hồng Sển, trong Tạp Bút năm Nhâm
Thân, trang 180).
Còn nghĩ về mùa
đông tuy vạn vật đìu hiu, tuyết rơi trắng xóa, cây cối trơ cành trụi lá, tưởng
đâu là đã chết khô giữa trời đông lạnh. Nhưng trái lại, chính là thời điểm di
dưỡng và chuyển hoá tuyệt vời, để tô điểm cho luật tuần hoàn: THÀNH- TRỤ- HOẠI-
KHÔNG! Bởi vậy mà một nhà thơ với tâm hồn đạo sĩ, có lần đã cảm hứng:
„Đông tuy lạnh nhưng không thể thiếu
Luật tuần hoàn vi diệu cao thâm
Chỉ là những khách hữu tâm
Mới hay đạo lý đêm đông tuyệt vời!“.
Mà quả thật, với
con người, Chúa đã giáng sinh ra đời trong một đêm đông băng giá. Với cây cỏ và
muôn loài, mùa đông tuy là mùa như có vẻ để thu gọn, nghỉ ngơi; nhưng kỳ thực lại
là mùa phấn đấu để chuyển hoá và dưỡng nuôi sức sống không ngừng. Đồng thời
cũng lại là một chặng đường cuối trên một chu trình quay, vừa để biểu hiện đạo
trời:Vật cùng tắc phản-
Vật cực tắc biến nhiệm mầu, vừa là một chuẩn bị trọn vẹn nhất để
đón mời Chúa Xuân, cho ngàn hoa đua nở, cho „búp non thêm xanh- chuyển hoá đời đời-
không bao giờ dứt“(Tâm
Kinh Việt Võ Đạo).
*
* *
Bây giờ, trở về
với chủ đề: Hải Ngoại & Bảo Tồn Quê
Hương do Hội Ái Hữu Gò Công Vùng Nam Cali-USA chủ xướng cho Đặc San Xuân Ất
Mùi 2015, quả là một đề tài bao quát. Có thể dễ dàng cảm nhận nhưng không dễ để
trình bày, bởi vì có rất nhiều lãnh vực cần đáng được quan tâm- Mặt khác, cho
dù có nói bao nhiêu cũng sẽ không bao giờ đủ! Đó là lý do mà tôi xin được cảm
nghĩ về bốn mùa trước để gởi gắm chút tâm tư và tình tự quê hương.. Hy vọng, nó sẽ vừa đủ để đáp tình với người bạn
quý đã mời gọi tôi góp bài, và cũng vừa để gợi chút hương xuân vui cùng bạn đọc
gần xa nhân buổi Xuân về.
Ở vùng trời Hải
Ngoại này, cho dù là Âu-Á-Úc-Mỹ hay Canada.. cũng đều là những khung trời tự do, trong đó
có xã hội đa văn hóa, đầy ắp tình người và ẩn chứa nhiều cơ hội để vươn lên. Do
đó Cộng Đồng Việt Hải Ngoại của chúng ta nói chung, các Thế hệ Trẻ của Việt Nam
nói riêng, quả thực là may mắn khi được sống trong những môi trường này, tuy
không cùng chung phong tục và ngôn ngữ, nhưng lại là xứ sở của văn minh tiến bộ,
có tinh thần dân chủ, có ý thức nhân bản.. Cho nên, thiết tưởng trước hết,
chúng ta rất cần có đủ ý thức trách nhiệm
của một công dân để biết sống với tinh thần hòa hợp cảm thông, hầu
có thể tích cực góp phần hoàn thiện hóa con người, lành mạnh hoá xã hội, nhân bản
hóa môi trường mà chúng ta đang sinh sống .. bằng vào những giá trị Việt và tinh thần hội
nhập của chúng ta.
Do đó nhu cầu Bảo Tồn Quê Hương vừa là một yêu cầu khẩn
thiết, lại vừa là một nhu cầu trường kỳ, làm sao để đáp đúng đây?! Nhìn lại thế
hệ thứ nhất khi đặt chân đến vùng trời xa lạ của những ngày đầu tiên thì đến
nay có người đã nằm xuống, có người đã già yếu, và đa số thì đã không còn trẻ nữa.
Mà hầu hết đều đã cố gắng rất nhiều để có thể tiến vững trên đường hội nhập,
song song với việc gìn giữ bản sắc đặc thù của dân tộc Việt Nam. Mà nỗ lực chung
này ở nhiều nơi, đa số đã thành công.
Nếu hỏi rằng tại sao chúng ta phải cố gắng gìn
giữ bản sắc đặc thù của dân tộc Việt Nam, mà nói nôm na là „Hồn
Nam Tính Việt“ cho ta và cho đàn cháu con ?! Đó là vì chúng
ta là người Việt nên không được phép
quên nguồn gốc Việt của mình. Nếu như chúng ta chọn thái độ sống vô trách nhiệm
đối với nguồn gốc, thì chẳng những cuộc sống của chúng ta khó tránh được cảnh
vô hồn, thế hệ con cháu của chúng ta sẽ mất hẳn hướng đi trên hành trình dân tộc,
mà xã hội chúng ta đang sinh sống cũng sẽ bị ô nhiễm trầm trọng do những phần tử
vô hồn, mất gốc gây ra.
Nhưng nỗ lực này
(bảo
tồn quê hương trong cách sống) đối với thế hệ thứ hai và những thế hệ kế
tiếp thì sao? Ta nhận thấy thực tình không đơn giản! Vì xã hội mới mà chúng ta
đang sinh sống, đối với những thế hệ cháu con được sinh đẻ tại đây thì đáng là
môi trường nhân bản, tốt đẹp về mọi mặt, kể cả những cơ hội học hỏi để tiến
thân. Nhưng lại là một môi trường ẩn chứa nhiều nguy cơ mất gốc, do ảnh
hưởng của phong tục-văn hóa-thịnh về văn minh vật chất, sự phát triển vượt bực
về khoa học- kỹ thuật .. Đó là chưa nói đến những tác hại không nhỏ của những
sinh hoạt cặn bã mà bất cứ xã hội nào cũng có, sẽ ảnh hưởng nặng nề, nếu như Việt tính và trình
độ tự chủ của tuổi trẻ Việt Nam chưa đủ vững.
Mà tình trạng: Thiếu GỐC- thiếu HỒN- thiếu HƯỚNG (nếu có) của những
thế hệ con cháu về sau không là điều khó hiểu, khó thấy trong đời sống thường
ngày của chúng ta; nếu như nền tảng giáo dục
gia đình của từng đơn vị tiểu gia không còn được coi trọng và nuôi
dưỡng; nếu như từng mỗi Cộng Đồng không có đuợc
những hướng xây dựng đúng cách (với tầm rộng lớn và có ảnh hưởng lâu dài ),
cũng như có những sinh hoạt lành mạnh và thường xuyên (trong phạm vi địa
phương) dể đùm bọc và nhắc nhở lẫn nhau, thì chỉ cần sau vài thế hệ, chắc chắn
sẽ chỉ còn thấy có Người Mỹ, Người Pháp, Người Đức .. gốc Việt đúng theo danh gọi
của nó mà thôi! Như vậy, công cuộc bảo tồn quê hương trong cách sống thường ngày của
chúng ta quả là vô cùng quan trọng, rất cần một sự đồng cảm sâu
xa, nhất là một sự đồng bộ chung của tất cả chúng ta.
Hy vọng, tinh thần
„Uống Nước Nhớ Nguồn“ và ước vọng „Lá Rụng Về Cội“ sẽ được mọi người, mọi
nơi quyết tâm vun đắp.
Viết
cho Buổi Đầu Xuân Ất Mùi – 2015
Trung Đạo
Nguyễn văn Nhàn
Cảm
Ghi ngày 30.11.2014