“Dự luật về Hội … ích cho dân thì ít mà lợi cho nhà nước thì nhiều, kể cả khả năng ngăn
chận việc thành lập Công đoàn độc lập của công nhân.”
LẬP HỘI CHO DÂN HAY CHO ĐẢNG?
Phạm Trần
Quốc hội Cộng sản
Việt Nam đã có kế họach thảo luận Dự luật về Hội trong
phiên họp kỳ 2/khóa 14, tháng 10/2016, nhưng ích cho
dân thì ít mà lợi cho nhà nước thì nhiều, kể cả khả năng ngăn chận việc thành lập
Công đoàn độc lập của công nhân.
Dự thảo có 8 Chương,
37 Điều “quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội.”
Ngay trong mục 2
của Điều 1 đã quy định rằng: “Luật này không áp dụng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công
đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam; tổ chức tôn giáo, tín
ngưỡng.”
Ngoài các tổ chức
tôn giáo, tín ngưỡng thuộc lĩnh vực tâm linh, các Tổ chức khác đều là của đảng
thành lập từ lâu. Chúng được hưởng các quyền lợi vật chất và hoạt động bằng
ngân sách nhà nước. Nhân sự điều hành và nhiều đoàn viên là những cán bộ, công
nhân viên và đảng viên ăn lương của dân để phục vụ đảng cầm quyền.
“Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh” là thành phần con ông cháu cha hay thuộc dòng tộc “có công với cách mạng”
hoặc được chọn từ hàng ngũ “con cháu các gia đình liệt sỹ”. Đòan viên là những
đảng viên kế thừa cho đảng trong tương lai. Họ được đảng nâng đỡ từ việc học đến
việc làm và hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của nhà nước vượt xa con dân thường.
Nhưng các Tổ chức
này lại không chịu bất cứ hình thức chế tài nào của luật lập Hội là một quyết định
bất công và kỳ thị rõ ràng đối với các tổ chức và hội của dân.
Bởi lẽ khoản 1 của
Điều 2 Dự thảo viết rằng: “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân,
tổ chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp quy định của pháp luật, hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; góp phần phát triển đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.”
Như vậy, các Hội
của dân rõ ràng có mục đích hoạt động nhân đạo, phục vụ công ích cho xã hội và
người dân hơn các Tổ chức của đảng và nhà nước ghi trong Điều 2 của Dự thảo luật.
Ai ở Việt Nam cũng biết các tổ chức do đảng lập ra chỉ
để thi hành công tác cho đảng và bảo vệ quyền lợi cho nhau. Nhân dân nếu
có, như Công đoàn Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam, trong
thực chất, chỉ làm lợi cho nhà nước về mặt tuyên truyền hơn là đem phúc lợi vật
chất và tinh thần cho hội viên và người dân trong xã hội.
BÀN
TAY NHÀ NƯỚC
Do đó, không có
gì ngạc nhiên khi thấy chỗ nào trong 37 Điều của Dự thảo cũng có bàn tay của
nhà nước.
Chẳng hạn như Khoản 4 của Điều 4 viết:” Nhà nước có chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức được
luân chuyển, điều động, phân công sang làm việc tại hội.”
Tại sao nhà nước
phải đặt cán bộ vào các “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ
chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp quy định của pháp luật, hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận…”?
Nếu không để kiểm soát thì vào đó làm gì?
Cơ quan nhà nước
còn“nắm đầu” luôn cả người đứng đầu Hội như quy định trong khoản 4, Điều 21:” Người đứng đầu hội là người đại diện
theo pháp luật của hội, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của hội.
Người đứng đầu hội do ban lãnh đạo bầu trong số các ủy viên ban lãnh đạo theo
quy định của pháp luật và điều lệ hội. Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu
hội.”
Việc “công nhận”
và “bãi nhiệm” sẽ được “Chính phủ quy định chi tiết thủ tục công nhận và bãi
nhiệm chức danh người đứng đầu hội.” (khỏan 5)
Đến chuyện gọi
là “quản lý Nhà nước về Hội” thì các điểm ghi trong Điều 31 đã vạch trần mọi mánh lới của đảng trong công tác kiểm soát
Hội.
Luật
cho phép nhà nước được:
1.
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hội.
2. Cấp đăng ký thành lập, chia,
tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và
chức danh người đứng đầu hội.
3.
Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý hội.
4.
Tuyên truyền phổ biến pháp luật về hội.
5.
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội; kiểm tra việc thực hiện điều lệ hội đối với các hội.
6.
Quản lý việc ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế, gia nhập các tổ chức quốc
tế của hội, triển khai các hoạt động đối ngoại, tiếp nhận viện trợ của các cá
nhân, tổ chức nước ngoài theo quy định của pháp luật.
7.
Quản lý tài sản, tài chính do Nhà nước cấp, khoán, hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ được giao và
do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ theo quy định của
pháp luật.
8.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về hội.
9.
Tổng hợp báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Về phần gọi là “quản
lý” thì Điều 32 của Dự Luật
quy định:
1. “Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội trong phạm vi cả nước.
2.
Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ
trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hội theo sự phân công của Chính phủ.
3.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm ban hành cơ chế,
chính sách để hội tham
gia thực hiện chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn và các hoạt động
khác theo quy định của pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình.
4.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cấp đăng ký
thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên,
công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội đối vớihội hoạt động
trong phạm vi địa phương mình; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của mình.
5.
Ủy ban nhân dân cấp huyện trong trường hợp được ủy quyền có trách nhiệm cấp đăng ký thành lập,
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều
lệ và chức danh người đứng đầu hội đối với hội hoạt động trong phạm vi địa
phương mình; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật thuộc phạm vi quản lý của mình.”
Khi bị nhà nước
kiểm soát như thế thì Hội phải làm gì theo đòi hỏi của Luật?
Điều 25 giải thích hết “Nghĩa vụ của hội” phải tuần hành
trong những điểm chính dưới đây:
1.
Chấp hành các quy định của pháp luật và tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận.
2.
Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.
3. Khi thay
đổi chức vụ lãnh đạo hội, thay đổi trụ sở, hội phải báo cáo cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động.
4.
Báo cáo việc thành lập pháp nhân thuộc hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính
mà hội hoạt động.
5.
Chậm nhất vào ngày 01 tháng 12 hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này (*) và cơ quan quản lý nhà nước ngành,
lĩnh vực chính mà hội hoạt động.
6.
Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyềntrong việc tuân thủ pháp luật và điều
lệ hội.
Khoản 9 của Điều 25 còn cho phép Nhà
nước kiểm soát chi tiêu của Hội:
“Việc sử dụng kinh
phí của hội phải chấp hành quy định của pháp luật và điều lệ hội. Hàng
năm, hội phải báo cáo quyết toán tài chính theo quy định của Nhà nước gửi cơ quan
tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này về việc tiếp nhận, sử dụng nguồn tài trợ của cá nhân, tổ chức nước
ngoài.”
(*) Điều 14 của
Dự thảo ghi trong khỏan 5 trên đây ấn định “Thẩm quyền cấp giấy đăng ký
thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên,
công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội” được phân chia như
sau:
a) Bộ
trưởng Bộ Nội vụ cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm
đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận chức danh người đứng đầu hội đối với hội
có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh.
b) Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh) cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất,
tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công chức danh người đứng đầu hội đối với hội
có phạm vi hoạt động trong tỉnh. Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền để Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân
dân cấp huyện) cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm
đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận chức danh người đứng đầu hội đối với hội
có phạm vi hoạt động trong huyện, xã.
Đối với
các Tổ chức hội ở cấp Quốc gia đã có từ lâu thì“Thẩm quyền phê duyệt điều lệ hội”
thuộc về Thủ tướng.
a) Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam, Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp Các hội văn học nghệ
thuật Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam,
Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội
Chữ thập đỏ Việt Nam;
Các hội không nằm
trong khoản (a) thì việc chấp thuận điều lệ thuộc quyền cấp dưới Thủ tướng. b) Đối
với các hội không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này thì
cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập hội quy định tại Khoản 1 Điều
này phê duyệt điều lệ hội.”
Như vậy,
từ khi thành lập đến tổ chức nhận sự, thay đổi nhân sự của hội, ngân sách hoạt
động và điều lệ của hội đều phải qua tay kiểm soát của nhà nước các cấp từ
trung ương xuống cơ sở.
Với những ràng
buộc bị trói như thế thì hội có còn là của dân nữa không, hay đã bị nhà nước
hoá từ đầu đến chân?
Nhưng chưa hết. Nhà nước còn kiểm soát cả những việc làm thuộc nội bộ của hội
như ghi trong Điều 20 quy định về việc
tổ chức và bầu cử.
Dự luật viết: “Chậm
nhất 30 (ba mươi) ngày trước khi tổ chức đại hội, ban lãnh đạo hội thông báo bằng
văn bản về việc tổ chức đại hội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định tại Điều 14 Luật này. Hội tổ chức đại hội sau khi có ý kiến chấp
thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này.” (mục
6)
Mục 7 viết: “Trong
thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày kết thúc đại hội, ban lãnh đạo hội gửi
báo cáo kết quả đại hội, đề nghị đổi tên, công nhận điều lệ sửa đổi, bổ
sung (nếu có) và chức danh người đứng đầu hội đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này.”
Mục 8 ghi:” Trong
thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ báo cáo kết quả
đại hội, đề nghị đổi tên, công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung và chức danh người
đứng đầu hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật
này công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội; trường hợp không công nhận,
phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”
Mục 9:” Chính
phủ quy định chi tiết hồ sơ, trình tự, thủ tục báo cáo tổ chức đại hội, báo
cáo kết quả đại hội và việc đổi tên, phê duyệt điều lệ sửa đổi, bổ
sung của hội.”
NGĂN CẤM VÀ TRÙNG LẮP
Cũng giống như mọi
Luật liên quan đến hoạt động và quyền lợi của công dân, dự luật về Hội cũng có
những điều ngăm cấm mơ hồ và tùy tiện để nhà nước có thể lợi dụng.
Điều 8 có 2 khỏan
liệt kê “các hành vi bị nghiêm cấm” là:
1. “Cản trở,
ép buộc, can thiệp vào việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội trái quy định của
pháp luật.
2. Thành lập,
hoạt động trái pháp luật, trái quy tắc đạo đức xã hội, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi
ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc,
quyền con người, quyền công dân.”
Trong khoản 2, Dự
thảo không giải thích thế nào là “xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân.” Cũng như thế nào là “gây phương hại
đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân
tộc, quyền con người, quyền công dân.”
Cả
hai vế cấm mơ hồ này đều là cửa ngõ rộng mở để nhà nước xử lý tùy tiện và tự do
xâm hại các tổ chức Hội.Trong
nhiều năm qua nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã nổi tiếng đàn áp người dân bằng
cách gán cho dân đã vi phạm“an ninh quốc gia” và “an tòan xã hội”. Họ còn lấy cớ
bảo vệ“khối đại đoàn kết dân tộc, quyền con người, quyền công dân” để
đàn áp dã man các cuộc biểu tình tự phát của người dân chống xâm lược Trung cộng
ở Biển Đông và chống bất công xã hội.
Đảng và nhà nước
CSVN cũng đã nhân danh bảo vệ “an ninh quốc gia” và “an tòan xã hội” để ra tay
đàn áp những cuộc tập hợp của dân ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi trong nước muốn
tưởng nhớ và ghi ơn 74 chiến sỹ quân đội Việt Nam Cộng đã hy sinh trong cuộc
chiến chống Tầu bảo vệ quần đào Hòang Sa tháng 1/1974; tưởng niệm 45, 000 quân
nhân và đồng bào đã bỏ mình trong cuộc chiến biên giới chống Tầu năm 1979; và
nhớ ơn 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân đã bỏ mình tại cuộc chiến chống quân Tầu ở
Trường Sa năm 1988.
Ngoài những điều
gây khó khăn và kiểm soát Hội, dự Luật cũng nghiêm cấm sự “trùng hợp hoạt động”
như ghi trong khoản 3 của Điều 9 về Hội.
Họ buộc: “Lĩnh
vực hoạt động chính không trùng lắp với lĩnh vực hoạt động
chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng
phạm vi hoạt động.”
Sự cấm đoán này
là chính đáng để tránh dẫm chân lên nhau, nếu không có chuyện Công đoàn độc lập
có thể được thành hình ở Việt Nam khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP, Trans- Pacific Partnership) có hiệu lực.
Hiện nay nhà nước
CSVN có Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (hay còn được gọi là Công đoàn Việt
Nam) mang danh nghĩa là nghiệp đoàn lao động lớn nhất của tập thể công nhân
nhưng cũng quy định “là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức
chính trị – xã hội và các tổ chức xã hội khác.”
Trên nguyên tắc,
tổ chức này có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho công nhân. Nhưng trongthực tế cán
bộ của Công đoàn đã ăn lương của chủ nhân và rất ít khi dám đứng ra bênh vực
quyền lợi cho công nhân. Nhiều vụ biểu tình đình công tự phát của công nhân đã
xẩy ra khắp nơi trong nước đòi quyền lợi và chống chủ nhân bóc lột, sau khi cán
bộ Công đoàn đã bỏ công nhân theo chủ để có bổng lộc.
Do đó, nếu có
Công đoàn độc lập hoạt động song song với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam của
nhà nước thì sẽ có xung đột về nhiệm vụ và quyền lợi.
Vì vậy, khi Điều 9 của dự luật ngăn cấm hoạt động gọi
là “trùng lắp” với “hội
đã được thành lập hợp pháp trước đó”như Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam thì hy vọng ra đời của Công đoàn lao động độc lập
càng bị thu hẹp lại, hay sẽ không xẩy ra.
Tuy nhiên, Quốc
hội Việt Nam vẫn chưa có kế họach phê chuẩn TPP trong kỳ họp thứ 2, dự trù khai
mạc ngày 20/10/2016 nên chưa biết tương lai của Công đoàn độc lập sẽ ra sao.
Theo Công ước 87
của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization) quy định về “Quyền
tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức” thì “Người lao động và
người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, đều không phải
xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa
chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ
chức đó.” (Điều 2)
Hay:
(1) “Các
tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền lập ra điều lệ,
những quy tắc quản lý, tự do bầu các đại diện, tổ chức việc điều hành hoạt động
và soạn thảo chương trình hoạt động của mình.”
(2) “Các cơ quan có thẩm
quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế quyền đó, hoặc cản trở
việc thi hành hợp pháp quyền đó.
Quan trọng hơn,
Điều 4 khẳng định: “Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao
động không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính nào buộc phải giải tán hoặc
đình chỉ.
Nhằm tạo sức mạnh
cho quyền của người Lao động, Công ước 87 viết trong Điều 5: “Các tổ chức của
người lao động và của người sử dụng lao động có quyền hợp thành các liên đoàn,
tổng liên đoàn, và mọi tổ chức, liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều có quyền
gia nhập đều có quyền liên kết với các tổ chức quốc tế của người lao động và
người sử dụng lao động.”
Để bảo đảm sự
minh bạch và công bằng giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước,
Điều 8 nói rõ: “(1) Trong khi thi hành những quyền mà Công ước này đã
thừa nhận cho mình, người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức tương
ứng của họ, cũng như mọi người và mọi tập thể có tổ chức khác, đều phải tôn trọng
pháp luật trong nước.”
Tuy nhiên trách
nhiệm phải tuân thủ Công ước 87 cũng buộc nhà nước Việt Nam phải thi hành khoản
2 của Điều 8 viết rằng: “(2) Pháp luật quốc gia không được có những quy
định mang tính chất xâm hại, cũng như không được áp dụng với mục đích xâm hại tới
những đảm bảo đã được quy định trong Công ước này.”
Như vậy những điều
quan trọng được trích ra từ Dự Luật về Hội có ghi trong bài này cho thấy nhà nước Việt Nam đã vi phạm các nguyên tắc về “Quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền
được tổ chức” của Công ước 87
do Tổ chức Lao động Quốc tế
(International Labour Organization) ban hành.
Ngoài những chướng ngại vật cản đường công nhân lập
hội, Dự luật còn cho phép cơ quan nhà nước xía mũi vào việc “công nhận ban vận
động” lập Hội trước khi thành hình Hội.
Khỏan 1, Điều
10 viết: “Công dân, tổ chức Việt Nam có nhu cầu
thành lập hội phải dự kiến danh sách những người tham gia ban vận động thành lập
hội, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ban vận động
thành lập hội”.
Như vậy là không trừ khâu
nào trong tiến trình lập Hội mà không có bàn tay lem luốc của nhà nước.
Vấn đề bây giờlà liệu khi đem ra thảo luận vào tháng 10, các Đại biểu Quốc hội
có ý thức được rằng quyền lập hội của dân, ngoài việc thi hành Luật của quốc
gia còn phải tuân thủ Luật pháp Quốc tế nữa.
Trường hợp của Tổ chức Công đoàn độc lập là một tỷ dụ.
Được thành lập hay không sẽ là một thách đố cho Quốc hội khi hai chữ “trùng lắp”
được đem ra thảo luận.
Phạm
Trần