22.09.2016

LẬP HỘI CHO DÂN HAY CHO ĐẢNG? - Phạm Trần

“Dự luật về Hội … ích cho dân thì ít mà lợi cho nhà nước thì nhiều, kể cả khả năng ngăn chận việc thành lập Công đoàn độc lập của công nhân.”

LẬP HỘI CHO DÂN HAY CHO ĐẢNG?

Phạm Trần

Quốc hội Cộng sản Việt Nam đã có kế họach thảo luận Dự luật về Hội trong phiên họp kỳ 2/khóa 14, tháng 10/2016, nhưng ích cho dân thì ít mà lợi cho nhà nước thì nhiều, kể cả khả năng ngăn chận việc thành lập Công đoàn độc lập của công nhân.

Dự thảo có 8 Chương, 37 Điều “quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội.”

Ngay trong mục 2 của Điều 1 đã quy định rằng: “Luật này không áp dụng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam; tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng.

Ngoài các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng thuộc lĩnh vực tâm linh, các Tổ chức khác đều là của đảng thành lập từ lâu. Chúng được hưởng các quyền lợi vật chất và hoạt động bằng ngân sách nhà nước. Nhân sự điều hành và nhiều đoàn viên là những cán bộ, công nhân viên và đảng viên ăn lương của dân để phục vụ đảng cầm quyền.

“Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh” là thành phần con ông cháu cha hay thuộc dòng tộc “có công với cách mạng” hoặc được chọn từ hàng ngũ “con cháu các gia đình liệt sỹ”. Đòan viên là những đảng viên kế thừa cho đảng trong tương lai. Họ được đảng nâng đỡ từ việc học đến việc làm và hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của nhà nước vượt xa con dân thường.

Nhưng các Tổ chức này lại không chịu bất cứ hình thức chế tài nào của luật lập Hội là một quyết định bất công và kỳ thị rõ ràng đối với các tổ chức và hội của dân.

Bởi lẽ khoản 1 của Điều 2 Dự thảo viết rằng: “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp quy định của pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.”

Như vậy, các Hội của dân rõ ràng có mục đích hoạt động nhân đạo, phục vụ công ích cho xã hội và người dân hơn các Tổ chức của đảng và nhà nước ghi trong Điều 2 của Dự thảo luật. Ai ở Việt Nam cũng biết các tổ chức do đảng lập ra chỉ để thi hành công tác cho đảng và bảo vệ quyền lợi cho nhau. Nhân dân nếu có, như Công đoàn Việt Nam  Hội Nông dân Việt Nam, trong thực chất, chỉ làm lợi cho nhà nước về mặt tuyên truyền hơn là đem phúc lợi vật chất và tinh thần cho hội viên và người dân trong xã hội.

BÀN TAY NHÀ NƯỚC

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi thấy chỗ nào trong 37 Điều của Dự thảo cũng có bàn tay của nhà nước.

Chẳng hạn như Khoản 4 của Điều 4 viết:” Nhà nước có chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức được luân chuyển, điều động, phân công sang làm việc tại hội.

Tại sao nhà nước phải đặt cán bộ vào các “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp quy định của pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận…”?

Nếu không để kiểm soát thì vào đó làm gì?

Cơ quan nhà nước còn“nắm đầu” luôn cả người đứng đầu Hội như quy định trong khoản 4, Điều 21:” Người đứng đầu hội là người đại diện theo pháp luật của hội, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của hội. Người đứng đầu hội do ban lãnh đạo bầu trong số các ủy viên ban lãnh đạo theo quy định của pháp luật và điều lệ hội. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.

Việc “công nhận” và “bãi nhiệm” sẽ được “Chính phủ quy định chi tiết thủ tục công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.” (khỏan 5)
Đến chuyện gọi là “quản lý Nhà nước về Hội” thì các điểm ghi trong Điều 31 đã vạch trần mọi mánh lới của đảng trong công tác kiểm soát Hội.

Luật cho phép nhà nước được:

1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hội.

2Cấp đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội.

3. Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý hội.

4. Tuyên truyền phổ biến pháp luật về hội.

5. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội; kiểm tra việc thực hiện điều lệ hội đối với các hội.

6. Quản lý việc ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế, gia nhập các tổ chức quốc tế của hội, triển khai các hoạt động đối ngoại, tiếp nhận viện trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài theo quy định của pháp luật.

7. Quản lý tài sản, tài chính do Nhà nước cấp, khoán, hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ được giao và do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ theo quy định của pháp luật.

8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về hội.

9. Tổng hợp báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý hội.

Về phần gọi là “quản lý” thì Điều 32 của Dự Luật quy định:

1. “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội trong phạm vi cả nước.

2. Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hội theo sự phân công của Chính phủ.

3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm ban hành cơ chế, chính sách để hội tham gia thực hiện chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình.

4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cấp đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội đối vớihội hoạt động trong phạm vi địa phương mình; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của mình.

5. Ủy ban nhân dân cấp huyện trong trường hợp được ủy quyền có trách nhiệm cấp đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội đối với hội hoạt động trong phạm vi địa phương mình; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của mình.”

Khi bị nhà nước kiểm soát như thế thì Hội phải làm gì theo đòi hỏi của Luật?

Điều 25 giải thích hết “Nghĩa vụ của hội” phải tuần hành trong những điểm chính dưới đây:

1. Chấp hành các quy định của pháp luật và tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.

2. Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.

3. Khi thay đổi chức vụ lãnh đạo hội, thay đổi trụ sở, hội phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động.

4. Báo cáo việc thành lập pháp nhân thuộc hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động.

5. Chậm nhất vào ngày 01 tháng 12 hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại  Điều 14 Luật này (*) và cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động.

6. Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyềntrong việc tuân thủ pháp luật và điều lệ hội.

Khoản 9 của Điều 25 còn cho phép Nhà nước kiểm soát chi tiêu của Hội
Việc sử dụng kinh phí của hội phải chấp hành quy định của pháp luật và điều lệ hội. Hàng năm, hội phải báo cáo quyết toán tài chính theo quy định của Nhà nước gửi cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này về việc tiếp nhận, sử dụng nguồn tài trợ của cá nhân, tổ chức nước ngoài.

(*) Điều 14 của Dự thảo ghi trong khỏan 5 trên đây ấn định “Thẩm quyền cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội” được phân chia như sau:

a) Bộ trưởng Bộ Nội vụ cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận chức danh người đứng đầu hội đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh.

b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công chức danh người đứng đầu hội đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh. Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền để Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận chức danh người đứng đầu hội đối với hội có phạm vi hoạt động trong huyện, xã.

Đối với các Tổ chức hội ở cấp Quốc gia đã có từ lâu thì“Thẩm quyền phê duyệt điều lệ hội” thuộc về Thủ tướng.

a) Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;

Các hội không nằm trong khoản (a) thì việc chấp thuận điều lệ thuộc quyền cấp dưới Thủ tướng. b) Đối với các hội không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này thì cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập hội quy định tại Khoản 1 Điều này phê duyệt điều lệ hội.”

Như vậy, từ khi thành lập đến tổ chức nhận sự, thay đổi nhân sự của hội, ngân sách hoạt động và điều lệ của hội đều phải qua tay kiểm soát của nhà nước các cấp từ trung ương xuống cơ sở.

Với những ràng buộc bị trói như thế thì hội có còn là của dân nữa không, hay đã bị nhà nước hoá từ đầu đến chân?

Nhưng chưa hết. Nhà nước còn kiểm soát cả những việc làm thuộc nội bộ của hội như ghi trong Điều 20 quy định về việc tổ chức và bầu cử.
Dự luật viết: “Chậm nhất 30 (ba mươi) ngày trước khi tổ chức đại hội, ban lãnh đạo hội thông báo bằng văn bản về việc tổ chức đại hội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này. Hội tổ chức đại hội sau khi có ý kiến chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này.” (mục 6)

Mục 7 viết: “Trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày kết thúc đại hội, ban lãnh đạo hội gửi báo cáo kết quả đại hội, đề nghị đổi tên, công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung (nếu có) và chức danh người đứng đầu hội đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này.”

Mục 8 ghi:” Trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ báo cáo kết quả đại hội, đề nghị đổi tên, công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung và chức danh người đứng đầu hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội; trường hợp không công nhận, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

Mục 9:” Chính phủ quy định chi tiết hồ sơ, trình tự, thủ tục báo cáo tổ chức đại hội, báo cáo kết quả đại hội và việc đổi tên, phê duyệt điều lệ sửa đổi, bổ sung của hội.”

NGĂN CẤM VÀ TRÙNG LẮP

Cũng giống như mọi Luật liên quan đến hoạt động và quyền lợi của công dân, dự luật về Hội cũng có những điều ngăm cấm mơ hồ và tùy tiện để nhà nước có thể lợi dụng.

Điều 8 có 2 khỏan liệt kê “các hành vi bị nghiêm cấm” là:

1. “Cản trở, ép buộc, can thiệp vào việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội trái quy định của pháp luật.

2. Thành lập, hoạt động trái pháp luật, trái quy tắc đạo đức xã hội, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc, quyền con người, quyền công dân.”

Trong khoản 2, Dự thảo không giải thích thế nào là “xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân.” Cũng như thế nào là “gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc, quyền con người, quyền công dân.”

Cả hai vế cấm mơ hồ này đều là cửa ngõ rộng mở để nhà nước xử lý tùy tiện và tự do xâm hại các tổ chức Hội.Trong nhiều năm qua nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã nổi tiếng đàn áp người dân bằng cách gán cho dân đã vi phạm“an ninh quốc gia” và “an tòan xã hội”. Họ còn lấy cớ bảo vệ“khối đại đoàn kết dân tộc, quyền con người, quyền công dân” để đàn áp dã man các cuộc biểu tình tự phát của người dân chống xâm lược Trung cộng ở Biển Đông và chống bất công xã hội.

Đảng và nhà nước CSVN cũng đã nhân danh bảo vệ “an ninh quốc gia” và “an tòan xã hội” để ra tay đàn áp những cuộc tập hợp của dân ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi trong nước muốn tưởng nhớ và ghi ơn 74 chiến sỹ quân đội Việt Nam Cộng đã hy sinh trong cuộc chiến chống Tầu bảo vệ quần đào Hòang Sa tháng 1/1974; tưởng niệm 45, 000 quân nhân và đồng bào đã bỏ mình trong cuộc chiến biên giới chống Tầu năm 1979; và nhớ ơn 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân đã bỏ mình tại cuộc chiến chống quân Tầu ở Trường Sa năm 1988.

Ngoài những điều gây khó khăn và kiểm soát Hội, dự Luật cũng nghiêm cấm sự “trùng hợp hoạt động” như ghi trong khoản 3 của Điều 9 về Hội.
Họ buộc: “Lĩnh vực hoạt động chính không trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động.”

Sự cấm đoán này là chính đáng để tránh dẫm chân lên nhau, nếu không có chuyện Công đoàn độc lập có thể được thành hình ở Việt Nam khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, Trans- Pacific Partnership) có hiệu lực.

Hiện nay nhà nước CSVN có Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (hay còn được gọi là Công đoàn Việt Nam) mang danh nghĩa là nghiệp đoàn lao động lớn nhất của tập thể công nhân nhưng cũng quy định “là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức xã hội khác.”

Trên nguyên tắc, tổ chức này có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho công nhân. Nhưng trongthực tế cán bộ của Công đoàn đã ăn lương của chủ nhân và rất ít khi dám đứng ra bênh vực quyền lợi cho công nhân. Nhiều vụ biểu tình đình công tự phát của công nhân đã xẩy ra khắp nơi trong nước đòi quyền lợi và chống chủ nhân bóc lột, sau khi cán bộ Công đoàn đã bỏ công nhân theo chủ để có bổng lộc.

Do đó, nếu có Công đoàn độc lập hoạt động song song với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam của nhà nước thì sẽ có xung đột về nhiệm vụ và quyền lợi.

Vì vậy, khi Điều 9 của dự luật ngăn cấm hoạt động gọi là “trùng lắp” với “hội đã được thành lập hợp pháp trước đónhư Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thì hy vọng ra đời của Công đoàn lao động độc lập càng bị thu hẹp lại, hay sẽ không xẩy ra.

Tuy nhiên, Quốc hội Việt Nam vẫn chưa có kế họach phê chuẩn TPP trong kỳ họp thứ 2, dự trù khai mạc ngày 20/10/2016 nên chưa biết tương lai của Công đoàn độc lập sẽ ra sao.

Theo Công ước 87 của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization) quy định về “Quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức” thì “Người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó.” (Điều 2)

Hay: 
(1) “Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền lập ra điều lệ, những quy tắc quản lý, tự do bầu các đại diện, tổ chức việc điều hành hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của mình.” 

(2) “Các cơ quan có thẩm quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế quyền đó, hoặc cản trở việc thi hành hợp pháp quyền đó.

Quan trọng hơn, Điều 4 khẳng định: “Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính nào buộc phải giải tán hoặc đình chỉ.

Nhằm tạo sức mạnh cho quyền của người Lao động, Công ước 87 viết trong Điều 5:Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền hợp thành các liên đoàn, tổng liên đoàn, và mọi tổ chức, liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều có quyền gia nhập đều có quyền liên kết với các tổ chức quốc tế của người lao động và người sử dụng lao động.”

Để bảo đảm sự minh bạch và công bằng giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước, Điều 8 nói rõ: “(1) Trong khi thi hành những quyền mà Công ước này đã thừa nhận cho mình, người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức tương ứng của họ, cũng như mọi người và mọi tập thể có tổ chức khác, đều phải tôn trọng pháp luật trong nước.”

Tuy nhiên trách nhiệm phải tuân thủ Công ước 87 cũng buộc nhà nước Việt Nam phải thi hành khoản 2 của Điều 8 viết rằng: “(2) Pháp luật quốc gia không được có những quy định mang tính chất xâm hại, cũng như không được áp dụng với mục đích xâm hại tới những đảm bảo đã được quy định trong Công ước này.”

Như vậy những điều quan trọng được trích ra từ Dự Luật về Hội có ghi trong bài này cho thấy nhà nước Việt Nam đã vi phạm các nguyên tắc về “Quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức” của Công ước 87 do Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization) ban hành.

Ngoài những chướng ngại vật cản đường công nhân lập hội, Dự luật còn cho phép cơ quan nhà nước xía mũi vào việc “công nhận ban vận động” lập Hội trước khi thành hình Hội.

Khỏan 1, Điều 10 viết: “Công dân, tổ chức Việt Nam có nhu cầu thành lập hội phải dự kiến danh sách những người tham gia ban vận động thành lập hội, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ban vận động thành lập hội”.

Như vậy là không trừ khâu nào trong tiến trình lập Hội mà không có bàn tay lem luốc của nhà nước. Vấn đề bây giờlà liệu khi đem ra thảo luận vào tháng 10, các Đại biểu Quốc hội có ý thức được rằng quyền lập hội của dân, ngoài việc thi hành Luật của quốc gia còn phải tuân thủ Luật pháp Quốc tế nữa.

Trường hợp của Tổ chức Công đoàn độc lập là một tỷ dụ. Được thành lập hay không sẽ là một thách đố cho Quốc hội khi hai chữ “trùng lắp” được đem ra thảo luận.

Phạm Trần