„Trung cộng đang ký kết các thỏa hiệp kinh tế với nhiều quốc gia
Đông Nam Á nhằm tạo điều kiện để Trung cộng xâm nhập sâu rộng hơn vào khu vực
này về lâu về dài.“
„…thế giới sẽ rất muốn biết Mỹ và phương Tây sẽ lên kế hoạch đối
phó với Trung cộng và việc phục hồi tham vọng Bình Thiên hạ (Pax Sinica) của nước
này như thế nào.“
Thỏa hiệp mới Trung - Việt: Trung cộng đang tìm cách đẩy Mỹ ra khỏi
Biển Đông
Trần Ngọc
Cư: Ngay
trước khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham dự lễ ký kết thoả hiệp kinh tế với Trung
cộng, Quốc hội Việt Nam biểu quyết đình hoãn việc phê chuẩn TPP, một hiệp định
do Mỹ bảo trợ và đang rơi vào thế bấp bênh. Cùng
với cuộc tập trận chung Nga-Trung diễn ra trên Biển Đông, thể hiện tinh thần
đoàn kết chống Mỹ của những thế lực “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với ĐCSVN
thì trong ngành giáo dục Việt Nam lại nổi lên yêu cầu dạy tiếng Nga, tiếng
Trung cho học sinh tiểu học. Phải chăng đây là những dấu hiệu cho thấy Việt Nam
đang chuyển trục chiến lược, hướng về Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa năm xưa, mặn nồng
hơn so với mấy năm qua có ý đồ đu đưa với Mỹ. Liệu người dân mất đất mất biển
có thấy mình choáng váng hay không?
|
Trung cộng (TC) dứt khoát bác bỏ phán quyết của Tòa
Hòa giải Thường trực, một phán quyết cho rằng TC không có thẩm quyền pháp lý để
bênh vực yêu sách đường chín đoạn có ý đồ của mình. Thái độ bất chấp này của TC
gây lo sợ cho Phi Luật Tân (nước đã đưa đơn kiện TC tại Tòa Hòa giải) và gây phẫn
nộ cho một số nước Đông Nam Á khác.
Theo quan điểm của TC, phán quyết này – vốn dựa vào
Công ước LHQ về Luật Biển – là bất công và có lợi cho phương Tây. Đại sứ TC tại
Vương quốc Anh, Liu Xiaoming, nói rằng TC tìm cách ‘giải quyết các tranh chấp liên quan bằng thảo luận và đàm phán song
phương’. Nhưng trong một bối cảnh xung đột địa chính trị tại những vùng biển
tranh chấp, chính xác mà nói, những cuộc đàm phán này sẽ diễn ra như thế nào?
Việt Nam phản ánh một quan
điểm mới
Thỏa hiệp gần đây giữa TC và Việt Nam cho ta chỉ dấu
rõ ràng nhất từ trước đến nay về bản chất của ‘đường lối ngoại giao’ TC. Thứ Ba
tuần trước, TC và Việt Nam đi đến chỗ đồng thuận quản lý cuộc tranh chấp lãnh
thổ giữa hai nước tại Biển Đông nhằm đảm bảo an ninh khu vực. Nhưng thỏa hiệp
này, theo Ralph Jennings của tờ
Forbes, có nghĩa là TC sẽ đẩy mạnh việc xây dựng hạ tầng
cơ sở tại Việt Nam. Quan hệ giữa Trung cộng và
Việt Nam là một quan hệ bấp bênh. Mặc dù Việt Nam lo ngại về ảnh hưởng
đang gia tăng của Trung cộng (và đã phản ứng bằng cách gia tăng việc mua sắm
các khí tài quốc phòng), nhưng Trung cộng lại là đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam.
Thoả hiệp của Trung cộng với Việt Nam phản ánh một
quan điểm rất tế nhị [nuanced] của Trung cộng đối với cuộc tranh chấp tại Biển
Đông. Trung cộng đang ký kết các thỏa hiệp kinh tế với
nhiều quốc gia Đông Nam Á nhằm tạo điều kiện để Trung cộng xâm nhập sâu rộng
hơn vào khu vực này về lâu về dài.
Tháng Giêng năm nay, hai công ty Trung cộng đã góp vốn
trong một nỗ lực tốn hàng tỉ đô la nhằm cứu Quĩ đầu tư quốc gia 1Malaysia
Development Berhad [viết tắt 1MDB – một công ty phát triển chiến lược do Chính
phủ Mã Lai làm chủ] đang gặp nhiều khó khăn. Tại Nam Dương, đầu tư Trung cộng
tăng lên 5 lần giữa năm 2015 và năm 2016. Như chúng tôi đã tường thuật trước
đây, Trung cộng đang qua mặt Hoa Kỳ để trở thành nguồn đầu tư nước ngoài quan
trọng nhất vào cơ sở hạ tầng Nam Dương. Dù thông qua đầu tư, thương mại hay một
đường lối nào khác, nhiều ví dụ gần đây cho thấy Trung cộng đã sử dụng sức mạnh
kinh tế-chính trị của mình để giành lấy ảnh hưởng trong khu vực.
Từng bước đẩy Mỹ ra khỏi
Biển Đông
Những thỏa ước này phản ánh một chuyển biến trong
thái độ của Trung cộng về chính sách đối ngoại, khi cường quốc này tìm cách
chinh phục sự kính nể của các nước láng giềng bằng một luận điệu chống Mỹ rất
rõ ràng. Trên thực tế, những gì chúng ta đang chứng kiến là một cuộc đọ sức giữa
Trung cộng và Hoa Kỳ để được nhìn nhận là cường quốc đang ổn định tình hình
trong khu vực. Mỗi bên đều có âm mưu làm các nước khác ngờ vực đối phương của
mình; việc này làm leo thang căng thẳng và gia tăng sự thiếu tin cậy lẫn nhau.
Trong tình hình cả hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ tỏ
ra không muốn phê chuẩn Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhiều dấu
hiệu cho thấy hiệp định này có thể không thành tựu. Nước Mỹ có vẻ không thắng
được cuộc chiến tranh tâm lý, trong lãnh vực này. Điều này sẽ rất đúng nếu
Donald Trump đắc cử vào tháng Mười Một tới.
Trung cộng còn tỏ ra khoái chí về mối bất hòa gần
đây của [Tổng thống Phi] Duerte đối với Tổng thống Barack Obama, phản ánh một
tinh thần chống Mỹ đang âm ỷ tại Manila. Việc Bộ Tư pháp Mỹ cho điều tra Công
ty Phát triển Chiến luợc Mã Lai (1MDB) cũng có thể gây căng thẳng giữa Putrajaya
và Washington.
Trung cộng đang nắm lấy thời cơ để đẩy Mỹ
ra rìa và thay đổi nguyên trạng trong khu vực, phản ánh quyết tâm giành lại vai
trò bá quyền lịch sử của mình. Chí ít, Trung cộng đang cố gắng
dùng sức mạnh cơ bắp để tiến tới địa vị đó. Đây là một viễn kiến được pha chế bằng
một hỗn hợp gồm tình tự dân tộc và lòng căm thù về mối quốc nhục mà Trung cộng
từng chịu đựng từ các cường quốc phương Tây trước đây, một tình tự được hóa
trang thành “Giấc mơ Trung cộng” của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Theo quan điểm của Trung cộng, Hoa Kỳ không phải (và
không được phép) là một đối tác liên quan trong các cuộc đàm phán về biên giới
trên biển này. Ý niệm cho rằng Mỹ phải tiến hành các cuộc tuần tra quân sự để đảm
bảo hòa bình khu vực chỉ là một lý cớ chính trị để tăng cường việc xâm lấn và
căng thẳng trong khu vực.
Những cuộc tập trận hải quân hỗn hợp Nga-Trung vừa kết
thúc trên Biển Đông cho thấy Moskva hậu thuẫn Bắc Kinh trong bối cảnh của phán
quyết La Haye. Nhưng đồng thời chúng cũng biểu hiện tinh thần đoàn kết chống Mỹ
[anti-American solidarity] đang thắt chặt hai cường quốc này.
‘Một vòng đai, Một đường
tơ lụa’: một sự đổi chác không có gì mới lạ
Trung cộng đưa ra dự án ‘Một vòng đai, Một đường tơ lụa” [the ‘One Belt, One Road’, đọc tắt OBOR] để chọi lại Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương [TPP] do Mỹ chủ
trì và cố tình để Trung cộng đứng ngoài. Trong thực chất,
OBOR chủ trương gửi các công ty Trung cộng đi xây dựng các cơ sở hạ tầng nước
ngoài để đổi lấy sự xâm nhập của Trung cộng vào các nước ấy – nới rộng ảnh
hưởng toàn cầu của Bắc Kinh. ‘Vòng đai’ sẽ kết nối các nền kinh tế chủ yếu
xuyên qua đại lục Á Âu [Eurasia] trong khi ‘con đường tơ lụa’ sẽ chiếm lấy châu
Á và nhiều vùng châu Phi – và đặc biệt là đa số các quốc gia Đông Nam Á.
Hẳn nhiên, đây không phải là một dàn xếp êm ái đối với
các quốc gia liên hệ nói trên. Chủ tịch Tập Cận Bình có thể tin tưởng rằng những
quốc gia đặc biệt lệ thuộc vào Trung cộng sẽ chấp nhận sự thống trị địa-chính
trị của Bắc Kinh để đổi lấy các đầu tư kinh tế trong nhiều lãnh vực khác nhau. Tập đang dùng ảnh hưởng tài chính của Trung cộng làm lá bài
mặc cả trong các cuộc dàn xếp đổi chác [quid-pro-quo arrangement] để
thúc đẩy các quốc gia lệ thuộc trấn áp phản ứng của người dân trước sự xâm lấn
lãnh thổ do Trung cộng gây ra.
Cũng vào thời điểm này năm ngoái, Tập đưa ra hứa hẹn
sẽ không quân sự hóa các đảo tại Trường Sa. Nhưng Tập không hề tỏ ra minh bạch
về các ý định đích thực của mình liên quan đến khu vực. Có lẽ Bắc Kinh đang chờ
đợi thời cơ. Có nhiều bài báo thậm chí gợi ra hình ảnh một mãnh thú Trung cộng
sẽ vồ lấy lấy Bãi cạn Scarborough sau cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ – khi Mỹ vừa
quay lưng. Dù dự đoán này có trở thành hiện thực hay không, những gì đang diễn
ra là một sự thay đổi quan trọng trong bàn cờ địa-chính trị tại Biển Đông và
nói rộng ra tại Đông Nam Á. Trung cộng đang ký kết các
thỏa ước quan trọng để củng cố thế mặc cả trong khu vực [regional
bargaining power], phòng khi nhiên hậu một cuộc ‘khủng hoảng’ thật sự [chiến
tranh] xảy ra.
Kết luận
Khi Đại sứ Liu Xiaoming gặp các quan chức chính trị
chủ chốt tại Chatman House, Viện Nghiên cứu Sự vụ Quốc tế Hoàng gia Anh, ngày
25 tháng Bảy, ông đã vẽ ra một bức tranh đáng ngưỡng mộ về đường lối ngoại giao
của Trung cộng. ‘Những lợi ích gắn kết Trung
cộng với Hoa Kỳ là quan trọng hơn những gì đang chia rẽ hai nước chúng tôi’,
Liu quyết đoán. Nhưng khi bị chất vấn bằng với những câu hỏi hóc búa hơn và bị
thúc đẩy phải giải thích rõ ràng các tham vọng của Trung cộng, Liu đâm ra chống
chế và qui kết người đưa ra câu hỏi “có
não trạng Chiến tranh Lạnh”.
Căn cứ vào vụ việc nhỏ bé nói trên, thì những căng thẳng là quá rõ ràng giữa Trung cộng và phương
Tây liên quan tới cuộc tranh chấp Biển Đông. Khi vị Tổng thống mới của Mỹ
được bầu chọn vào ngày 8 tháng Mười Một sắp tới, thế
giới sẽ rất muốn biết Mỹ và phương Tây sẽ lên kế hoạch đối phó với Trung cộng
và việc phục hồi tham vọng Bình Thiên hạ (Pax Sinica) của nước này như thế nào.
Thử nghiệm đầu tiên cho một chính phủ còn non trẻ sẽ là một thử nghiệm
gay go; bất cứ một tính toán sai lầm nào cũng có thể đột xuất đưa đến một cuộc
leo thang xung đột.