07.01.2017

Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu ? (I, II, III) - Nguyễn Thị Từ Huy

Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu ? (I, II, III)

Nguyễn Thị Từ Huy

Phần I

Trong những ngày cuối cùng này của năm 2016, nhìn vào tình hình chính trị Việt Nam có thể nói gì ?
Tôi tạm đưa ra đây ba cách nhìn nhận khác nhau, đúc kết từ sự quan sát cá nhân của tôi về các ý kiến lưu hành trong dư luận xã hội (opinion publique) :

1/ Chế độ chính trị hiện hành còn tồn tại lâu dài,

2/ Đảng cộng sản sẽ tự chuyển hoá để tự bảo tồn và để tiếp tục lãnh đạo dân tộc,

3/ Chế độ độc tài cộng sản sẽ nhanh chóng sụp đổ.

Xin nói rõ, đây là sự tổng kết về các cách nhìn nhận đang tồn tại trong dư luận xã hội mà tôi trình bày lại dưới hình thức điểm tình hình, mỗi quan niệm sẽ được phân tích trong một bài riêng, để tiện theo dõi.

Bài đầu tiên này giới thiệu quan niệm cho rằng chế độ chính trị hiện hành ở Việt Nam còn tồn tại lâu dài.


Có thể xếp những người nhìn nhận theo cách này vào hai nhóm :
1/ Nhóm thứ nhất gồm các lãnh đạo cộng sản và các chuyên gia lý luận cao cấp của đảng cộng sản.

2/Nhóm thứ hai gồm những người bi quan về chính trị. Mỗi nhóm đều có căn cứ và lập luận riêng của mình.

1. Trong số các lãnh đạo cộng sản đang cố tìm mọi cách để duy trì chế độ, không ít người chỉ vì lợi ích cá nhân. Tuy nhiên (dù điều này có thể gây ngạc nhiên) cũng có những người muốn duy trì chế độ vì bản thân chế độ, cái chế độ mà họ coi như là « cái bình quý », nếu mượn lại hình ảnh ẩn dụ của Tổng bí thư. Số người này có thể là rất ít, nhưng vẫn tồn tại ở Việt Nam, vậy đó !!!
« Hy vọng » về sự trường tồn của chế độ được duy trì, một phần là nhờ công lao to lớn của các nhà lý luận cao cấp của đảng. Hồi tháng 3 năm 2016, trong hội thảo « Viet Nam : Après le 12e congrès du PCV, rupture ou continuité ? » (Việt Nam : sau đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam, từ bỏ hay tiếp tục ?) do Quỹ Gabriel Péri tổ chức tại Paris, Giáo sư Vũ Minh Giang có phát biểu với một xác tín không gì lay chuyển được : « chừng nào dân tộc còn tồn tại thì đảng còn tồn tại, đảng sẽ trường tồn cùng dân tộc ». Cần phải thừa nhận rằng, các chuyên gia lý luận cao cấp của đảng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc củng cố sự «kiên định » chủ nghĩa Marx-Lê Nin và con đường xã hội chủ nghĩa nơi các lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm. (Đến đây mở ngoặc để thêm vào một bình luận cá nhân : nếu các chuyên gia cao cấp như ông Vũ Minh Giang có cái nhìn biện chứng hơn và thực tế hơn một chút thì có lẽ viên thuốc ngủ mà các ông cung cấp cho đảng sẽ ít ngọt ngào hơn, và đảng sẽ tỉnh táo hơn).

Dựa vào đâu để có thể nghĩ rằng chế độ sẽ trường tồn ? Dưới đây là một vài dẫn chứng và lập luận mà các chuyên gia lý luận cộng sản và các lãnh đạo cộng sản sử dụng để chứng minh cho vai trò lãnh đạo không thể thay thế của đảng và biện minh cho con đường mà họ lựa chọn :

- Chính là với chủ nghĩa cộng sản và với sự lãnh đạo của đảng cộng sản mà Việt Nam đã thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, đã tự giải phóng khỏi vị thế thuộc địa và giành độc lập, đã giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh.

- Giai đoạn đổi mới bắt đầu từ 1986 đã chứng tỏ khả năng thay đổi và thích ứng với tình hình của đảng cộng sản Việt Nam, và vì thế mà ĐCSVN xứng đáng giữ vai trò lãnh đạo, dù có được dân thực sự bầu hay không. Thành tựu của ba mươi năm đổi mới là mở cửa kinh tế mà vẫn ổn định và giữ vững chính trị.

- Nếu đổi mới lần một thành công, thì đổi mới lần hai, tính từ thời điểm này, cũng sẽ thành công, dù có nhiều khó khăn. Và vì thế, ĐCSVN sẽ tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo để củng cố hệ thống chính trị hiện hành.

Những lập luận và dẫn chứng trên đây được phản ánh đầy đủ trong nghị quyết Trung ương Đảng.

2. Những người thuộc nhóm bi quan chính trị cũng nhìn nhận rằng chính trị Việt Nam còn rất lâu mới có thể thay đổi. Tuy nhiên, dẫn chứng và lập luận của họ khác hẳn nhóm thứ nhất. Sau đây là một số điểm khiến họ bi quan :

- Quyền lực của ĐCSVN hiện đang rất vững chắc. Toàn bộ các công cụ quyền lực đều nằm trong tay ĐCSVN : nhà nước, công an, quân đội, truyền thông, giáo dục, pháp luật…

- Với bộ máy quyền lực đó, sự đàn áp không ngừng gia tăng trong những năm qua.

- Phong trào dân chủ quá yếu. Hoạt động chủ yếu vẫn chỉ là truyền thông, đưa tin, tố cáo. Các tổ chức và đảng phái chính trị không hình thành được. Xã hội dân sự manh mún, các tổ chức không có thực lực, không tập hợp được với nhau, luôn trong tình trạng chia rẽ. Không có các phong trào chính trị rộng lớn.

- Số người quan tâm chính trị quá ít. Đa số trí thức và người dân, kể cả thanh niên (là tầng lớp vốn được xem là giàu nhiệt huyết và lý tưởng) chỉ quan tâm đến vấn đề mưu sinh.

- Các quốc gia, kể cả các quốc gia dân chủ, vì lợi ích của nước họ, sẵn sàng hợp tác với Việt Nam và bỏ qua vấn đề nhân quyền, vấn đề dân chủ. Đây là điều đã khiến cho nhiều người trong giới đấu tranh dân chủ ở Việt Nam không che giấu sự thất vọng của mình : Tổng thống Mỹ Obama, trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5/2016, một mặt vừa phát biểu rằng sẽ tôn trọng thể chế chính trị Việt Nam, mặt khác đã không thể làm gì trước những vi phạm nhân quyền thô bạo diễn ra ngay trong chính những ngày ông có mặt tại Việt Nam. Sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế hay văn hoá, nghịch lý thay, lại là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại của chế độ chính trị độc tài ở Việt Nam. Đây là điều gây thất vọng và gây bi quan một cách sâu sắc.

- Đa số các trí thức Việt Nam ở nước ngoài (tạm dùng chữ trí thức Việt kiều theo nghĩa tôn trọng) không tham gia vào cuộc đấu tranh cho dân chủ, vì họ muốn hợp tác với chính quyền, và họ hy vọng rằng sẽ giúp cho Việt Nam thay đổi và phát triển thông qua sự hợp tác của họ (hợp tác để mở một viện nghiên cứu, một trường đại học, một trung tâm hội thảo…). Tuy nhiên, nếu đối diện với thực tế thì cần phải thừa nhận điều này : sự hợp tác sẽ chỉ có ý nghĩa tích cực khi mà họ được độc lập hoạt động theo các tiêu chí của sự tiến bộ, theo các tiêu chí công bằng, công khai, minh bạch, trung thực, hay xây dựng một môi trường học thuật, môi trường giảng dạy trong sạch, như họ mong muốn. Và các tiêu chí tiến bộ ấy được áp dụng, được lan toả trong xã hội. Còn trong trường hợp ngược lại, sự hợp tác buộc họ phải tuân thủ những « luật ngầm, bất thành văn » của chế độ, thì chẳng những họ sẽ không thực hiện được mong muốn phát triển và làm thay đổi Việt Nam, mà tệ hơn, họ sẽ góp phần vào việc củng cố chế độ bất công và thối nát hiện tại. Danh tiếng của họ, uy tín khoa học và uy tín cá nhân của họ, lại được sử dụng như những phương tiện để đánh bóng và tô vẽ cho bề ngoài của một hệ thống chính trị đang mục rữa cùng cực từ bên trong. Tóm lại, trong trường hợp này, sự hợp tác của họ sẽ giúp chế độ độc tài hiện hành tồn tại lâu dài hơn, và các vấn đề mà họ muốn giải quyết thì lại không thể giải quyết được, bởi vì những vấn đề ấy chỉ có thể được giải quyết trong một chế độ chính trị dân chủ.
Tóm lại, có những lý do khiến cho ĐCSVN lạc quan về sự tồn tại của mình (nhưng sự tồn tại của đảng có thể sẽ phải gắn liền với sự huỷ hoại chung của dân tộc), và khiến cho những người yếm thế cảm thấy bi quan.

Paris, 29/12/2016

Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu?    Phần II

Có những người mong muốn thể chế chính trị Việt Nam được cải cách một cách căn bản để chuyển đổi sang một cơ chế dân chủ, tạo điều kiện cho sự phát triển, bởi vì cơ chế độc tài hiện hành đang kìm hãm phát triển và là nguyên nhân của hầu như tất cả các vấn nạn xã hội. Tuy nhiên, bộ phận này mong muốn đảng cộng sản cải tổ để có thể tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo, để tiếp tục là « đảng của dân tộc », theo như cách nói của họ. Những người thuộc nhóm này có lẽ không nhiều, họ là những đảng viên kỳ cựu hoặc là « đảng viên có lương tri », cho đến giờ phút này vẫn ở trong đảng, dù rằng họ nhìn thấy rất rõ sự suy thoái của đảng, và nhìn thấy rất rõ trách nhiệm của đảng đối với các vấn đề hiện tại mà đất nước và nhân dân phải gánh chịu. Họ đã viết nhiều đơn thư, kiến nghị, nhằm góp ý cho đảng trong hy vọng rằng tiếng nói của họ sẽ có một ảnh hưởng nhất định.

Xin dẫn một ví dụ, ông Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, trong loạt bài “Về đại hội XII” của ĐCSVN, có đoạn viết:

« Đảng hôm nay tiếp tục tha hóa về phẩm chất, trí tuệ và năng lực; tổ chức của đảng ngày càng bất cập trước sự phát triển, trước tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước nói chung và của đảng nói riêng; năng lực lãnh đạo của đảng ngày càng mờ nhạt vì bế tắc về quan điểm đường lối; hệ quả là đảng đang rơi tiếp trong xu thế từ một đảng lãnh đạo xuống thành một lực lượng chính trị độc quyền.

Toàn bộ tình hình trên đặt ra đòi hỏi sống còn: Cải cách thể chế chính trị và triệt để đổi mới đảng là lối thoát duy nhất để đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển năng động mới, đáp ứng đòi hỏi cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời để có thực lực đối mặt được với mọi thách thức mới. »

Có thể thấy, những kiến nghị mà ông Nguyễn Trung đưa ra trong loạt bài này, một mặt, nhằm đề xuất những cải tổ cơ bản về cơ chế chính trị, và những cải tổ này, nếu thực hiện được, sẽ củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Ngoài ra nếu đọc các đơn thư, kiến nghị của nhóm đảng viên trong đó có ông Nguyễn Trung, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, ông Tương Lai… thì thấy rằng họ rất thống nhất ở quan điểm này. Và đó là một quan điểm đầy thiện chí đối với ĐCSVN.

Tuy nhiên, đảng không hiểu thiện chí của bộ phận đảng viên này đối với đảng. Trong Nghị quyết trung ương 4, khoá XII, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016, có dành một phần nội dung quan trọng để định nghĩa các biểu hiện « tự diễn biến », « tự chuyển hoá » trong nội bộ, các biểu hiện khiến cho Tổng bí thư phải lo ngại và đảng phải cương quyết chống lại. Trích nguyên văn :

3. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ 
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. 
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. 
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. 
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. 
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an. 
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước. 
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. 
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng. 
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước. 

Đọc phần định nghĩa về các biểu hiện « tự diễn biến » trong nội bộ đảng, thì có thể thấy rằng đảng không những từ chối các góp ý mang tính xây dựng của nhóm đảng viên có tâm huyết với đất nước và với đảng, mà còn xếp họ vào loại đã « tự chuyển hoá » mà đảng cần phải chống cho bằng được.
Vấn đề là, ngoài nhóm đảng viên vẫn hay viết kiến nghị, nếu còn có một bộ phận khác trong đảng cũng nghĩ như vậy, nhưng không nói ra một cách công khai, thì nỗi lo lắng của Tổng bí thư lại là một dấu hiệu cho thấy nhu cầu cải cách là một nhu cầu nội tại, một nhu cầu đến từ bên trong nội bộ ĐCSVN. Nếu nhu cầu cải cách này là có thật ở một bộ phận trong đảng hiện đang nắm các chức vụ quyền lực, thì có thể hy vọng một ngày nào đó, sự cải cách sẽ được hiện thực hoá.

Nhưng nếu bản Nghị quyết trung ương 4 không chỉ thể hiện ý chí của riêng Tổng bí thư, mà thể hiện ý chí của toàn thể Bộ Chính trị và toàn đảng, thì có thể nói rất khó có hy vọng cải cách, và, mượn cách nói của ông Nguyễn Trung, đảng sẽ lại tiếp tục tha hoá.

Paris, 31/12/2016

Nền chính trị độc tài Việt Nam còn tồn tại dài lâu ?  
Phần III

Trong bài này, tôi tiếp tục đưa ra cách nhìn thứ ba về tương lai của nền chính trị độc tài tại Việt Nam hiện nay. Một số không ít những người làm phân tích, bình luận về các vấn đề Việt Nam cho rằng, nếu sự khủng hoảng về chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường vẫn tiếp tục và không có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn hoặc giảm bớt hậu quả, thì thực tế sẽ đào thải cái mô hình chính trị đi ngược lại với các quy luật của cuộc sống, mô hình đang tồn tại và đang là nguyên nhân của mọi khủng hoảng ở Việt Nam lúc này. Chính khủng hoảng sẽ đặt dấu chấm hết cho chế độ.

Tôi tạm tổng kết một số lý do làm cơ sở cho cách nhìn nhận này, mà tôi nắm bắt được từ các phản ứng của dư luận xã hội :

1/ Hệ thống chính trị bị tha hoá, bị lũng đoạn ở mọi cấp độ và sự bất lực của ĐCSVN trong việc chống lại sự tha hoá và lũng đoạn của đảng viên các cấp.

Nhận định này rất thống nhất, kể cả ở các nhà quan sát, bình luận, lẫn ở các tầng lớp dân chúng, và điều này được thừa nhận ngay cả trong nghị quyết của ĐCSVN qua các kỳ đại hội khác nhau. Nếu đọc các nghị quyết của đảng từ những năm 80 của thế kỷ trước sẽ thấy rằng điều này đã được chính ĐCSVN  đề cập đến.

Người ta không thể không thống nhất với nhau ở điểm này, bởi vì nhìn đâu cũng thấy dẫn chứng. Ở đây chỉ nêu một điểm, thuộc dạng cốt yếu nhất : càng hô hào chống tham nhũng thì tham nhũng càng phát triển. Đảng không chỉ thất bại vào năm 2012, khi không thể kỷ luật được « đồng chí X », mà kể từ đó, tham nhũng hoàn toàn thắng lợi trên toàn quốc, trở thành nỗi quốc nhục. Gần đây nhất, nỗ lực chống tham nhũng rốt cục chạm tới được một nhân vật thuộc cỡ tầm tầm bậc trung là Trịnh Xuân Thanh. Nhưng vụ Trịnh Xuân Thanh lại trở thành một ví dụ tiêu biểu cho sự thất bại của hệ thống chính trị trong việc cố gắng làm trong sạch đội ngũ. Chẳng những Trịnh Xuân Thanh trốn khỏi Việt Nam, thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật, mà những đối tượng liên quan đến vụ việc cũng chỉ bị khiển trách nhẹ nhàng. Có người bình luận ngoài lề, bên ly cà phê rằng : « nếu Trịnh Xuân Thanh biết trước chỉ bị đảng khiển trách nhẹ nhàng như vậy thì chắc không việc gì phải trốn chạy, phải để interpole truy nã làm gì. Vì bỏ trốn nên mới bị truy nã, bây giờ thành ra to chuyện. »

Nghịch lý mà ĐCSVN đang phải đối diện là : Một mặt, đảng biết rõ muốn trở nên vững mạnh thì phải có các cơ chế để kiểm soát quyền lực, kiểm soát sự lạm quyền của các đảng viên, phải làm trong sạch đảng, phải giải quyết các vấn đề của quốc gia : chủ quyền, môi trường, an sinh xã hội, văn hoá, đạo đức ; mặt khác, muốn có cơ chế kiểm soát quyền lực thì không có cách nào khác là phải có một bộ máy pháp luật đúng nghĩa, một bộ máy pháp luật đảm bảo tam quyền phân lập, điều này thì đảng lại không chấp nhận.

Vì thế, đối diện với nghịch lý này, đảng đang chọn giải pháp « phê bình, tự phê bình », một giải pháp chẳng bao giờ có hiệu quả trong việc chống các tệ nạn trong đảng, kể cả từ thời Hồ Chí Minh còn sống. Phê bình, tự phê bình chỉ có tác dụng làm nhụt ý chí của một số trí thức phản kháng trước đây (mở ngoặc để nói rằng số trí thức này hồi đó còn tin và sợ đảng), nhưng giờ đây giải pháp này chẳng còn bất kỳ một tác dụng nào, nếu không muốn nói rằng nó còn khuyến khích và thúc đẩy các tệ nạn phát triển mạnh hơn.

Không giải quyết được nghịch lý này, sự tha hoá của đảng sẽ tiếp tục ở mức độ còn cao hơn. Một hệ thống chính trị tha hoá và kém năng lực sẽ dẫn tới các hậu quả có thể theo hai hướng khác nhau :

a) Nếu xã hội và con người Việt Nam đã hoàn toàn mất khả năng đề kháng thì hệ thống chính trị này sẽ tiếp tục tồn tại và sự tha hoá của nó đã và sẽ kéo theo sự tha hoá của toàn bộ xã hội, và ngược trở lại sự tha hoá của toàn bộ xã hội sẽ đảm bảo cho sự tồn tại cho đảng cầm quyền đã bị tha hoá.

b) Nếu xã hội và con người Việt Nam còn đủ sức đề kháng nhất định thì họ sẽ không chấp nhận một mô hình chính trị đi ngược với các quy luật bình thường, và khiến cho cuộc sống của họ trở nên tồi tệ. Trong trường hợp này, sự tha hoá của đảng cầm quyền chính là lý do dẫn đến việc nó sẽ bị đào thải, có thể vào thời điểm mà các khủng hoảng xã hội và khủng hoảng chính trị đạt tới một mức độ nhất định. Hiện nay khủng hoảng vẫn đang tiếp tục gia tăng. Bên dưới cái vỏ ngoài « ổn định chính trị » mang tính ngôn từ mà lãnh đạo không ngừng nhắc đi nhắc lại, mọi người dân VN đều cảm nhận được sự bất ổn không ngừng gia tăng của hệ thống.

2/ Sự tha hoá và khủng hoảng của bộ máy chính trị dẫn đến các khủng hoảng xã hội và sự mất niềm tin của dân chúng.

Điều này là hệ quả của điều thứ nhất đã trình bày trên đây. Tôi dẫn lại đây lập luận của một số người, nghe qua có vẻ rất lạ lùng :

-Đừng sợ việc đảng và chính quyền gia tăng đàn áp và bắt bớ. Càng đàn áp, càng bắt bớ, đảng sẽ tạo ra ít nhất hai hiệu ứng : a) người dân càng hiểu rõ hơn bản chất của chế độ và oán thán nó, b) khi gia tăng đàn áp, bắt bớ những người vô tội thì chế độ đánh mất lý do để biện minh cho sự tồn tại của mình. Tăng cường đàn áp sẽ tạo hiệu ứng ngược. Nó sẽ thúc đẩy nhanh hơn quá trình suy vong của chế độ.

-Hãy cứ để cho Việt Nam mất hẳn vào tay Trung cộng (mở ngoặc để nói rằng bản thân tôi khi nghe đến lập luận này cũng cảm thấy rất sốc). Những người nghĩ theo cách chứng minh rằng : người VN trong suốt lịch sử của mình, chưa bao giời chịu để mất nước, có những lúc đã mất vào tay TC, vào tay Pháp, nhưng cuối cùng người Việt đều đứng lên để giành lại. Vì thế, nếu VN mất hẳn vào tay TC thì đó là cơ hội để người VN lấy lại ý chí của mình, cái ý chí dường như đã bị đè bẹp trong gần nửa thế kỷ dưới sự cầm quyền của ĐCSVN. Lúc mất nước thật, người VN sẽ lại như Thánh Gióng, sẽ quật khởi và đoàn kết để chống thù trong, giặc ngoài.

3/ Thảm hoạ môi trường

Môi trường VN, dưới sự khai thác một cách vô trách nhiệm của các cấp chính quyền trong nhiều thập kỷ qua, giờ đây đang phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc. Nhiều đơn vị sản xuất đang hoạt động với sự cho phép của chính phủ, trên thực tế, đang vận hành giống như những quả bom nổ chậm treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam. Quả bom Formosa đã nổ, nhưng kíp nổ cũ sau khi phá hoại hàng trăm km bở biển miền trung lại tiếp tục được thay thế bằng kíp nổ mới. Cần chờ đợi nó sẽ lại nổ lần nữa. Những quả bom nổ chậm khác (như Bô-xít Tây nguyên) vẫn đang nằm chờ, giờ lại thêm thép Cà Ná. Hạn hán và lũ lụt liên tục xảy ra, không những không giải quyết được, mà ngày càng sẽ trầm trọng. Một ví dụ rõ nét là đồng bằng Sông Cửu Long đang bị đe doạ trầm trọng.

Môi trường sống là yếu tố mang tính quyết định. Hãy hình dung vũ trụ có bao nhiêu giải ngân hà, mỗi giải ngân hà có bao nhiêu hành tinh, vậy mà chỉ có trái đất mới có môi trường cho sự sống. Khi môi trường sống bị đe doạ huỷ diệt chỉ vì sự quản lý yếu kém của hệ thống chính trị thì liệu 90 triệu người VN có chấp nhận không ? Bởi vì khi môi trường sống bị huỷ diệt, thì kể cả những người hưởng lợi từ hệ thống chính trị cũng sẽ không còn đất sống. Chẳng nhẽ 90 triệu người bỏ đi hết ? Và bỏ đi đâu ? Người VN, chắc chẳn sẽ phải hành động, dưới áp lực của môi trường sống. Năm 2016 đã là năm đánh dấu sự hành động của người dân cho môi trường sống của mình. Trong lúc đó thì hệ thống chính trị bộc lộ toàn bộ sự bất lực khi không thể giải quyết vấn đề Formosa. Dung dưỡng cho Formosa, chính là nuôi mầm diệt vong cho chế độ. Đấy là lập luận của những người nhìn nhận theo cách này.

4/ Các tượng đài nghìn tỉ và nợ công : bất ổn kinh tế

Các con số chính thức do nhà nước công bố đem lại ấn tượng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng ổn định. Đầu tư nước ngoài tiếp tục vào VN cũng là một sự đảm bảo cho một nền kinh tế xưa nay vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất của các doanh nghiệp nước ngoài. Mặc dù thế, nhiều nhà bình luận về kinh vẫn đưa ra các cảnh báo không mấy lạc quan, thêm vào đó là các dấu hiệu thực tế như tích trữ vàng trong dân, giá sinh hoạt tăng, tỉ giá đô la tăng, tin đồn về đổi tiền, tin đồn về khả năng vỡ quỹ bảo hiểm xã hội, tin đồn về mức độ thực sự của nợ công, các công ty lớn của VN bị sang tên cho các công ty nước ngoài…

Đồng thời, trong bối cảnh đó, các tượng đài trăm nghìn tỉ vẫn tiếp tục được phê duyệt bất chấp cái hầu bao còm cõi của ngân sách, bất chấp sự nghèo đói của người dân ở các vùng sâu vùng xa hay các vùng hạn hán, lũ lụt. Các công ty nhà nước vẫn tiếp tục được ưu tiên trong sự thua lỗ dưới sự bảo trợ của nhà nước. Đây là lý do khiến một số người cho rằng VN đang tích luỹ các điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế, và họ cho tin tưởng rằng một cuộc khủng hoảng kinh tế đủ tầm mức tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của hệ thống chính trị. Những người này đã nhìn thấy một vài ví dụ sống động ở các nước trên thế giới. Tham nhũng, đầu tư không cần hiệu quả, chi tiền cho những dự án thua lỗ và vô bổ… là con đường dẫn thẳng tới Hy Lạp hay Venezuela.

5/ Nhận thức xã hội thay đổi

Trong khi thái độ bi quan chính trị cho rằng phong trào phản kháng, phong trào dân chủ ở VN hiện tại còn quá yếu, chưa đáp ứng được đòi hỏi và yêu cầu của thực tế lịch sử, thì cũng tồn tại một thái độ lạc quan chính trị, cho rằng xã hội VN chuyển động với tốc độ nhanh từ khoảng mười năm nay.

Đã hình thành xã hội dân sự và một số tổ chức xã hội dân sự. Người dân đã vượt qua nỗi sợ, các phản ứng trên facebook phản ánh điều này. Chủ quyền bị đe doạ, môi trường bị bức tử… cũng là những yếu tố khiến cho người VN giờ đây sẽ buộc phải quan tâm đến các vấn đề xã hội chính trị, tức là quan tâm đến sự tồn tại của chính mình.

Một số hiện tượng xã hội tiêu biểu diễn ra trong năm 2016 khiến người ta có thể hình dung một năm 2017 cũng sẽ không kém phần sôi động. Lần đầu tiên các ứng viên độc lập tham gia ứng cử Quốc hội tạo thành một phong trào, thu hút không chỉ các nhà hoạt động xã hội mà cả các nghệ sĩ và các thành phần tự do trong xã hội. Lần đầu tiên hơn mười ngàn người dân đã xuống đường bảo vệ môi trường sống trong tinh thần ôn hoà bất bạo động, trong tình yêu cuộc sống và trong tình yêu của Thiên chúa. Lần đầu tiên xảy ra hiện tượng một MC truyền hình kêu gọi hỗ trợ đồng bào vùng bão lụt chỉ sau ba ngày nhận được 16 tỷ đồng, gợi lên nhiều phân tích bình luận, nhưng có lẽ bình luận đáng ghi nhớ nhất là : hiện tượng này trả lại ý nghĩa cho hai từ « minh bạch » trong một xã hội đặc trưng bởi sự tham nhũng.

Một thái độ lạc quan chính trị nhìn nhận theo hướng : khủng hoảng xã hội và khủng hoảng chính trị chính là sự thử thách khả năng giải quyết khủng hoảng, là điều kiện để kiểm chứng bản lĩnh của các cá nhân và bản lĩnh của cả một dân tộc, và là điều kiện cho các hình thái chính trị mới hình thành.

Paris, 2/1/2017

Nguyễn Thị Từ Huy