„…những ai thật sự đã có lòng tự hào dân tộc hết sức, thì nên
quay về học chữ Nôm của tổ tiên. Để được tự hào như người Nhật tự hào với Kana
và người Hàn với Hangul của họ, do chính họ tạo ra.“
Tự hào chữ Nôm như người Nhật yêu Kana
Trịnh
Bách
Chữ
Nôm viết theo thể Hành thư. Các chữ này đọc theo chiều dọc từ phải sang là ‘Lơ
thơ dăm chồi quất, lớt phớt mấy điểm đào, lao xao vài giọt bụi, lúi húi cởi hầu
bao’.
Ngày xưa các nước Đồng Văn (cùng văn
hóa, chữ viết), tức là các nước Trung Hoa, Nhật, Hàn và Việt; dùng Hán tự làm
chữ viết. Sau đó người Việt dựa theo chất liệu chữ Hán mà tạo ra chữ viết riêng
của mình gọi là chữ Nôm để ghi chép tiếng Việt. Có nhiều minh chứng cho thấy chữ
Nôm đã xuất hiện ở nước ta từ thời Lý Trần. Các bản văn quan trọng,
như các văn bản của triều đình hay sách học và thơ phú cổ của Việt Nam, từ thời
lập quốc cho đến những năm đầu thế kỷ 20, đều viết bằng Hán tự. Cũng cùng thời
gian ấy nhiều bài thơ, văn và sách truyện đại chúng được viết bằng chữ Nôm. Chữ
Nôm trông giống chữ Hán nhưng người Tàu không thể đọc được.
Cả chữ Hán cổ (tức là chữ Nho) và chữ Nôm của nền văn
hóa hơn ngàn năm của người Việt đều bị xóa mất bởi chữ Quốc ngữ hiện nay, do
các vị Giáo sỹ Công giáo người Ý, Pháp và Bồ Đào Nha lấy mẫu tự La tinh, Bồ Đào
Nha và chữ số La Mã và Ả rập mà tạo ra, bắt đầu từ hồi thế kỷ 16-17. Và sau đó
người Pháp ép buộc triều đình và dân chúng Việt Nam phải chấp nhận lối chữ viết
này. Thâm ý của họ là khiến dân Việt rồi sẽ không còn đọc được văn, sách cũ
trong nước để biết nền văn hóa của mình nữa. Một dân tộc đã mất văn hóa sẽ chấp
nhận nền văn hóa mới, trong trường hợp này là của mẫu quốc, dễ hơn. Và như thế
họ sẽ bớt chống đối nền đô hộ của ngoại bang hơn. Xem cách chính phủ Pháp và
nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương hồi đó ráo riết thúc đẩy việc này thì thấy rõ ý
đồ của họ.
Triều đình Việt Nam, ngay từ lúc người Pháp áp đặt
chữ Quốc ngữ thời vua Khải Định, cũng như nhiều học giả Việt Nam sau này, vẫn cố
gắng dịch tài liệu, văn sách cũ của nước ta bằng chữ Hán và chữ Nôm ra chữ Quốc
Ngữ. Để người dân Việt có thể đọc và biết rõ hơn được nền văn hóa của nước
mình. Nhưng làm sao có thể phiên dịch được cả hơn ngàn năm chữ nghĩa đó…
Trước năm 1954 ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam, các
trường trung học vẫn dạy chữ Hán cho học sinh các năm đầu. Và các nhà trí thức
Việt Nam ở cả hai miền trong các giai đoạn đó dù theo Tây học nhưng vẫn coi trọng
và có căn bản Hán học. Cho nên nền tảng văn hóa dân tộc của họ rất vững.
Người Nhật hiện cũng vẫn dùng chữ Hán cổ (gọi là
Kanji tức Hán tự) cho các văn bản quan trọng. Trong khi từ thế kỷ thứ 5 họ cũng
bắt đầu tự tạo ra các hệ thống chữ viết cho ngôn ngữ riêng của mình mà ngày nay
tổng hợp lại gọi là Kana, giống như trường hợp chữ Nôm của Việt Nam. May mắn
cho người Nhật là họ không bị đô hộ bởi ngoại bang cho nên họ hiện vẫn dùng
song song hai hệ thống Hán tự và quốc ngữ Kana. Trong tất cả những trường hợp
quan trọng, họ vẫn dùng Hán tự. Thí dụ như bảng đề tên của Thủ tướng Nhật vẫn
được viết bằng chữ Hán là ‘Thủ Tướng Các hạ Đại thần’. Các bộ trưởng Nhật vẫn
dùng chức danh bằng Hán tự là ‘Đại thần’,v.v.
Hàn Quốc cũng tương tự. Thời xưa chữ viết chính của
họ cũng là Hán tự (Hanja). Đến năm 1440 vua Sejong lập xong hệ thống mẫu tự ký
âm để đọc tiếng Hàn quốc gọi là Hangul, tức Hàn ngôn (Bắc Triều Tiên sau này đặt
ra hệ thống mẫu tự riêng gọi là Chosolgul, tức Triều Tiên ngôn, hay Uri Kulja,
tức Quốc ngữ). Và từ đấy Hangul được xử dụng song song với Hán tự, dù Hangul bị
chống đối bởi giới Nho sỹ đến nỗi đã có những lúc bị triều đình cấm xử dụng. Đến
khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thì Hangul chiếm thế thượng phong. Nhưng
giới học giả trí thức Hàn Quốc cho đến giờ vẫn phải rành Hán văn để đọc văn
sách, thơ phú và các tài liệu cổ của nước họ, vì trong cả ngàn năm cho đến lúc ấy
đều viết bằng Hán tự.
Năm 1971 Hàn Quốc bãi bỏ việc dậy Hán tự ở cấp Tiểu
học. Hán tự chỉ còn được dạy ở trung học, với 900 mặt chữ Hán được dậy ở bậc Cơ
sở, và 900 chữ nữa ở bậc Phổ thông. Tổng cộng sinh viên Hàn Quốc có vốn liếng
1800 chữ Nho. Từ năm 2013 có phong trào đòi hồi phục sự giảng dậy chữ Hán cho bậc
Tiểu học để giới trẻ Hàn Quốc biết và hiểu được văn hóa của họ sớm hơn.
Bắc Triều Tiên ngay khi độc lập tuyên bố bãi bỏ việc
dậy Hán tự. Nhưng từ năm 1966 đã khôi phục lại vì thấy cần thiết. Và hiện nay học
sinh từ lớp 5 đến lớp 9 được dậy cả thẩy 1500 mặt chữ Hán. Bậc phổ thông thêm
500 chữ và bậc Đại học thêm 1000 chữ. Như vậy tổng cộng sinh viên Bắc Triều
Tiên học được 3000 chữ Nho.
Ở Trung Hoa thì Hán ngữ hiện đại khác với Hán ngữ cổ.
Chữ viết giản thể sau này lại càng khiến cho chữ Tàu hiện đại rời xa chữ Hán thời
Đường, Tống. Chữ Hán cổ, tức là thứ chữ Hán được người Việt chính thức xử dụng
trong các lãnh vực hành chính, giáo dục, văn chương thi phú… suốt hơn ngàn năm,
có tính bao hàm. Nghĩa là một chữ có thể đọc được bằng nhiều âm và bao hàm nhiều
nghĩa khác nhau. Hán ngữ cổ này không biến đổi theo thời gian và hiện nay tồn tại
như một tử ngữ. Trong khi đó ngôn ngữ Hán biến đổi theo thời gian về cả cách
phát âm lẫn ý nghĩa, nhất là qua các thời Nguyên, Thanh. Người Hoa bây giờ muốn
hiểu Hán tự, Hán ngữ cổ và đọc được văn sách cổ của họ thì cũng phải đi học. Một
giáo sư tiến sỹ khoa Nhân chủng học người Hoa của Đại học Hong Kong khi đọc các
câu đối chữ Hán trong các đền, chùa Việt Nam đã gãi đầu gãi tai than chỉ hiểu
lõm bõm. Đại khái Hoa ngữ hiện nay bên Trung Hoa so với Hán ngữ cổ thì cũng
tương tự như tiếng Ý ngày nay so với tiếng Latin xưa, hay tiếng Ấn so với tiếng
Phạn cổ.
Nên nhớ rằng vùng lãnh thổ cho đến Quế Lâm của Trung
Hoa hiện nay ngày xưa thuộc về người Bách Việt. Quảng Đông và Quảng Tây xưa thuộc
Việt cho nên vua Quang Trung mới có ý định đòi lại. Như vậy nền văn minh Điền cổ
xưa ở vùng tây nam Trung Hoa, mà nhiều người Việt vẫn cho là của Trung Hoa, thật
ra cũng phải là một nền văn minh Việt. Vì cư dân ở Vân Nam, Quảng Tây thời cổ
là người Bách Việt. Và trong tam Hoàng thủy tổ của Trung Hoa, thì Thần Nông được
cho là thủy tổ của giống Việt. Cho nên nền văn minh Hán chưa chắc đã của riêng
nước phương Bắc.
Ngay bên Trung Hoa danh xưng ‘Hán’ không hẳn có
nghĩa là người Hoa. Người Hoa tự xưng là Đường nhân chứ không gọi mình là Hán
nhân. ‘Trang Hán tử’ có nghĩa là người đàn ông văn minh chứ không phải là người
đàn ông Trung Hoa. Danh xưng Hán này có nghĩa là như vậy chứ không phải vì triều
đại nhà Hán. Cho đến các thời Đường, Tống thì chữ viết ở các nước Đồng Văn vẫn
chỉ gọi chung chung là Văn tự, nghĩa là chữ viết. Đến đời Nguyên mới có danh
xưng chính thức ‘Hán tự’ để chỉ chữ viết của người Trung Châu, để phân biệt với
‘Mông tự’ là chữ viết của người Mông Cổ. Ngay ở Việt Nam hồi xưa chữ ‘Hán phủ’
có nghĩa là ‘chốn văn minh’, thí dụ như kinh đô Huế hay các đô thị lớn, để phân
biệt với những nơi quê mùa man mọi không biết chữ nghĩa, lễ giáo…
Quả thật, các từ ngữ trong tiếng Việt, Hàn hay Nhật
cũng có đại đa số là từ chữ Hán. Dù được viết bằng Quốc ngữ Bồ-La Tinh của Việt
Nam, Kana Nhật, hay Hangul, đa số từ ngữ của các nước Đồng Văn này đều có gốc từ
Hán ngữ. Thí dụ đơn cử là gần hết các tên hay họ của cả nam lẫn nữ ở Việt Nam đều
là chữ Hán phát âm theo lối Hán Việt. Những tên họ phổ thông nhất như Hùng,
Dũng, Cường, Văn, Dung, Hoa, Nguyệt, Lan; hay Nguyễn, Trần, Lê, Phan, v.v, đều
là chữ Hán. Rồi tử tế, công ty, du lịch, thành công, phúc đức, v.v, trong ngôn
ngữ Việt Nam cũng là chữ Hán. Và nhà nghiên cứu Trần Quang Đức khẳng định rằng
âm đọc tiếng Hán thời Đường gần với âm đọc tiếng Hán Việt của người Việt hơn là
âm đọc tiếng Tàu hiện đại.
Một điều rất khả thi nhưng có thể trở thành không tưởng,
vì tính cách và phong cách sống của người Việt mình hiện nay. Đó là nếu những ai thật sự đã có lòng tự hào dân tộc hết sức, thì
nên quay về học chữ Nôm của tổ tiên. Để được tự hào như người Nhật tự hào với
Kana và người Hàn với Hangul của họ, do chính họ tạo ra. Và để đọc được
truyện Kiều đúng như cách Thi hào Nguyễn Du đã viết nó. Viết thư pháp hay đại tự,
câu đối bằng chữ Nôm cũng rất đẹp. Trong khi đó câu đối viết dọc mà viết bằng
chữ Quốc ngữ Bồ-Latin có khi bị vướng mắc, vì lối chữ này viết ngang chứ không
viết dọc. Và nếu có nhiều những từ có nhiều chữ cái như nguyệt, trường, thường,
chuyển,v.v, thì có khi vướng.
Bữa trước trên đài truyền hình công cộng PBS của Mỹ
có chiếu chuyện một thanh niên Nhật sau 10 năm cố gắng học nghề làm răng giả bằng
tay theo lối cổ truyền không thành công nhưng vẫn quyết chí học tiếp. Một chuyện
nho nhỏ còn cần công sức và lòng kiên nhẫn như thế, huống chi việc khôi phục một
nét văn hóa của cả một dân tộc như chữ Nôm. Không thể là chuyện mì ăn liền được.
Nhưng muốn học chữ Nôm thì trước tiên phải học chữ
Hán.
Phải cảm ơn các giáo sỹ Tây phương đã
tạo ra cho chúng ta chữ Quốc ngữ rất dễ học (chỉ dễ với người Việt
biết nói tiếng Việt thôi, còn đối với người ngoại quốc thì chữ Quốc ngữ Việt
Nam được cho là rất rắc rối). Nhưng nếu chúng ta
không bị người phương Tây đô hộ hơn một trăm năm thì người Việt vẫn còn có được
2 dòng chữ viết tương hình rất đẹp là Hán và Nôm đó. Không thấy người Nhật
nào than việc học song song 2 bộ chữ Hán và Kana của họ là khó hay lạc hậu cả.
VOA
Tiếng Việt