MÔT KHÁT VỌNG TRUYỀN ĐỜI CỦA HÁN TỘC
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Một sử gia Pháp đã nói như sau:
“L’Histoire est un éternel recommencement” (Lịch sử là một sự tái diễn mãi mãi).
Câu nói này áp dụng khá chính xác đối với lịch sử lâu đời của nước Tàu. Thật vậy,
từ thời cổ đại đến ngày nay, nước Tàu luôn luôn nuôi dưỡng một tham vọng không
hề thay đổi: thôn tính các nước lân bang
để bành trướng lãnh thổ của mình. Khát
vọng truyền đời nầy đã được Hán tộc thực hiện bằng chiến tranh và mưu gian kế độc.
Nhờ vậy,Trung Hoa ngày nay bao gồm Trung Hoa lục địa ở giữa, Mông Cổ và Mãn Thanh
ở phía Bắc, các nước nhỏ ở phía Nam sông Dương Tử (Bách Việt), Tây Tạng và Hồi
Hột tứcTân Cương của dân tộc Hồi Uighur ở phía Tây. Hướng về biển cả ở phía Đông
và phía Nam, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên
biển Hoa Đông (East China Sea), tranh chấp với Nhựt bổn về chủ quyền trên đảo
Senkaku (Điếu Ngư) và muốn nuốt trọn biển Nam Trung Hoa (South China Sea) bằng
cách đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands) của Việt Nam Cộng Hòa năm
1974, cướp đoạt đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) của Việt
Nam cộng sản năm 1988, xây dựng các đảo nhân tạo trên Biển Đông để làm căn cứ
quân sự kiểm soát đường hàng hải và hàng không quốc tế.
Tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông với các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan,
Trung cộng đã ngang ngược tuyên bố Biển Đông là nội hồ của mình bất chấp Công ước
Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS) 1982. Công bố bản đồ 9 đoạn,Trung Quốc bộc
lộ dã tâm chiếm hữu trên 80% Biển Đông bằng cách biểu dương sức mạnh quân sự để
đe dọa các nước nhỏ ven biển, nhứt là Việt Nam, một chư hầu của Hán tộc đã và đang
hứng chịu nhiều áp lực nặng nề của thiên triều Bắc Kinh trong thời đại Hồ Chí
Minh. Bản đồ Lưỡi Bò của Trung cộng hoàn toàn không phù hợp với luật pháp quốc
tế. Phán quyết của Tòa án Trọng Tài Quốc Tế xét xử đơn kiện của Philippines sẽ
là một cảnh cáo đối với Trung cộng, một
siêu cường đang thôn tính dần dần Việt Nam theo kế hoạch “Tầm ăn dâu” và “Diễn
biến hòa bình”.
Chiến
tranh xâm lăng trong thời Xuân Thu-Chiến Quốc
Chiến tranh đã liên miên xảy ra bên Tàu
giữa các chư hầu của nhà Châu. (Xem Đông Châu Liệt Quốc,Nhà Xuất bản T.P Hồ Chí
Minh, Sài Gòn, 2000). Từ khi Thiên tử nhà
Châu dời đô về Lạc Dương, một thành phố lớn của tỉnh Hà Nam, một cái nôi của nền
văn minh Trung Hoa, nhà Đông Châu bắt đầu suy yếu, các chư hầu nổi lên tranh bá
đồ vương. Trên 500 năm trước Công nguyên (BC), nước Tàu bao gồm một triều đình
nhà Châu và trên 200 nước lớn nhỏ tùy theo ngự lịnh phong điền kiến ấp của Thiên
tử ban cấp cho các vương tôn, quý tộc và công thần để hưởng lộc. Đáng kể nhứt là
các nước Tần, Tấn, Sở, Tề, Ngụy, Triệu, Hàn, Ngô, Việt, Vệ, Yên, Lỗ, Tống, Trịnh,
Trần, Thân v.v… Các nước đánh chiếm đất
đai và thành trì của các nước lân
bang để sát nhập vào lãnh thổ của mình nhưng vẫn tùng phục Thiên tử nhà Đông
Châu.
Trong thời Chiến Quốc, nhờ Vệ Ưởng áp dụng biến pháp một cách sắt máu để
phát triển kinh tế và xây dựng một quân lực hùng mạnh, nước Tần đã xua quân sát
phạt và tóm thâu lục quốc (Triệu, Ngụy, Hàn, Tề, Yên, Sở), dẹp luôn nhà Đông Châu,
thống nhứt nước Tàu lần đầu tiên vào năm 221 BC dưới quyền thống trị bạo tàn của
Doanh Chánh tức Tần Thủy Hoàng, đóng
kinh đô tại Hàm Dương thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Băng hà năm 210 BC, Hoàng
đế Tần Thủy Hoàng cai trị nước Tàu thống nhứt vô cùng tàn ác (đốt sách, chôn trí
thức, xây Vạn lý trường thành v.v...) trong 11 năm. Nhân dân ta thán và quật khởi,
nhà Tần đã sụp đổ năm 2007 BC sau khi Tần Nhị Thế (Hồ Hợi) bị quần chúng nổi dậy
giết chết. Quả báo đã đến ngay với nước Tần, Tần Thủy Hoàng và tướng Tần Bạch Khởi không lâu sau khi danh tướng
nầy tàn sát 40 vạn tù hàng binh nước
Triệu. Đại thắng trận Trường Bình, tướng Tần Bạch Khởi đã giết chết tổng cộng
45 vạn quân Triệu. Số phận của Tần Thủy Hoàng và Bạch Khởi đã kết thúc trong ô
nhục: thân xác của Tần Thủy Hoàng đã hóa thành dòi bọ hôi thúi trước khi về đến
kinh đô Hàm Dương; Bạch Khởi bị thất sủng và giết chết như một tội đồ sau khi lập
được công to.
Ngoài phương tiện chiến tranh, các nước
chư hầu bên Tàu trong thời cổ đại còn sử
dụng nhiều thủ đoạn dơ bẩn và mưu kế gian trá để thôn tính các nước lân
bang. Đáng kể nhứt là âm mưu buôn vua của Lã Bất Vi nhằm mục đích đưa con ruột
của ông ta khi còn là thai nhi (Triệu Chánh) chiếm đoạt ngôi vua của nước Tần.
Lã Bất Vi đã thành công trong việc thực hiện âm mưu đen tối của y, trở thành Tể
tướng nước Tần nhưng lại bị chính con ruột (Tần Doanh Chánh) giết chết. Âm mưu
tráo đổi ngôi vua của Lã Bất Vi bên Tàu trên 200 năm trước Công nguyên lại tái
diễn trong thế kỷ 20 tại Việt Nam.
Riêng về mặt đối xử của kẻ chiến thắng đối với
tù hàng binh, Tổng Bí thơ Lê Duẫn của
đảng Cộng sản Việt Nam và Thủ tướng Phạm
văn Đồng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng tàn ác giống như tướng Bạch Khởi của nước Tần. Sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa năm
1975, Lê Duẫn và Phạm văn Đồng đã tập trung cải tạo dài hạn cả triệu quân cán
chánh Việt Nam Cộng Hòa, cán bộ đảng viên các chánh đảng quốc gia, nhân viên các
Sở Mỹ, trí thức, ký giả và văn nghệ sĩ miền Nam để giết chết dần mòn bằng một
chế độ lao tù cực kỳ độc ác. Người viết bài nầy là một trong ba trăm ngàn
(300,000) tù hàng binh VNCH bị thợ thiến heo Đỗ Mười, ủy viên bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam, áp giải ra lưu
đày trong rừng núi Bắc Việt để bị tiêu diệt trong các nhà tù hắc ám cách biệt
thế giới bên ngoài. Năm 1977, trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ tướng Phạm
văn Đồng, đã công khai tuyên bố các tù hàng binh VNCH đã phạm tội chết. Nếu không
có dư luận quốc tế, cuộc tắm máu chắc chắn đã xảy ra tại miền Nam Việt Nam sau
ngày 30-4-1975.
Chiến
tranh xâm lăng Việt Nam từ phương Bắc
Từ thế kỷ thứ hai BC đến ngày nay, nước
ta luôn luôn phải đương đầu với họa xâm lăng từ phương Bắc:
1-Triệu
Đà đánh chiếm nước Văn Lang (danh hiệu đầu tiên của Việt Nam): sau khi nhà
Tần suy vi, tướng Tần Triệu Đà lập ra nước Nam Việt ở phía Nam sông Dương Tử, tự
xưng Hoàng đế. Từ vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), nước Nam Việt của
Triệu Đà bành trướng xuống phía Nam và thôn
tính nước Âu Lạc của An Dương Vương
Thục Phán, lợi dụng cuộc hôn nhân của Trọng Thủy-Mỵ Châu để đánh cắp các bí mật
quốc phòng của An Dương Vương.
2- Sau khi nhà Tần sụp đổ, nhà Hán từ phía Bắc sông Hoàng Hà và sông
Hán tràn xuống phía Nam, đánh chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà, thiết lập chế độ
đô hộ và gởi các Thái thú đến cai trị nước ta gọi là An Nam Đô Hộ Phủ. Về đơn vị
hành chánh, nước Văn Lang cũ được gọi là Giao Châu. Sự tham tàn và bóc lột của
các quan lại Hán là nguyên nhân của hai cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Bà Triệu (Triệu Ẩu). Mặc dầu bị dập tắt trong một thời gian ngắn, hai
cuộc khởi nghĩa của ba vị nữ lưu hào kiệt dưới thời đô hộ của nhà Hán đã nói lên
tinh thần quật cường, bất khuất và dũng cảm của dân tộc Lạc Việt biểu hiện rất
sớm.
3- Sự đô hộ của giặc Hán tạm lắng dịu trong thời kỳ biến loạn, phân
tranh bên Tàu dưới các triều đại Hậu Hán, Tam Quốc, nhà Tấn, Nam Bắc Triều
và nhà Tùy. Đến khi nhà Đường hưng
thịnh dưới triều đại Lý Thế Dân, quan lại Hán tộc đã đến thống trị nước ta với
danh nghĩa An Nam Tiết Độ sứ. Một trong những Tiết Độ sứ thời nhà Đường là Vũ Hồn,
tổ tiên của Nhiếp ảnh gia Vũ Cao Đàm. Năm 938, lợi dụng cơ hội nhà Đường suy yếu,
Ngô Quyền thâu hồi độc lập của nước
nhà sau 1,000 năm Bắc thuộc.
4- Trong thế kỷ 13, triều đình Nguyên Mông đang thống trị nước Tàu đã
ba lần gởi đại quân Mông Cổ bách chiến bách thắng từ Á sang Âu đến xâm lược nước
ta nhưng cả ba lần đều bị quân dân Lạc Việt dưới quyền chỉ huy của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn đánh bại.
5- Năm 1407, lợi dụng sự cầu viện của Trần
Thiêm Bình sau khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, Minh Thành Tổ Chu Đệ gởi
quân Minh sang đánh chiếm và thống trị nước ta từ 1407 đến 1427. Với sự đầu hàng
của tướng Minh Vương Thông, quân chiếm đóng của nhà Minnh đã bị Lê Lợi và Nguyễn Trãi đánh đuổi về Tàu năm 1427.
6- Năm 1789, nhân cơ hội vua Lê Chiêu Thống
cầu viện, triều đình nhà Đại Thanh đang cai trị nước Tàu đã phái nhiều vạn quân
Thanh qua chiếm đóng kinh thành Thăng Long nhưng đã bị đại đế Quang Trung Nguyễn Huệ đánh tan tác vào
đầu năm Kỷ Dậu trong trận chiến thắng thần tốc Ngọc Hồi-Đống Đa.
7- Từ 1862 đến 1945, Trung Hoa mất ảnh hưởng
đối với Việt Nam. Theo các hòa ước ký kết năm 1862, 1874 và 1884, Pháp quốc có
quyền cai trị Nam kỳ (Cochinchine) như một thuộc địa và có quyền bảo hộ đối với
An Nam (Trung kỳ) và Bắc kỳ (Tonkin). Nhưng kể từ tháng 8 năm 1945, nước Tàu dần
dần tái lập ảnh hưởng đối với Việt Nam, lợi dụng vai trò lãnh đạo tối cao của
Chủ tịch Hồ Chí Minh tức Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng
Trung cộng đã được đảng Cộng sản Trung Hoa cài cắm trên đầu của đảng Cộng sản
Việt Nam từ năm 1940 tại Pác Bó, Cao Bằng để đào tạo, huấn luyện và dạy dỗ người
cộng sản Việt Nam. Với quân viện ngày càng gia tăng kể từ năm 1950, Trung cộng đã
tận tình giúp đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh đánh Pháp, Mỹ và Việt Nam
Cộng Hòa để chiếm đoạt cà nước Việt Nam ngày 30-4-1975 sau khi Hoa Kỳ giải kết
và bắt tay với Bắc kinh để làm ăn, buôn bán.
Thay vì đánh chiếm Việt Nam như ngày
xưa, Trung cộng ngày nay đã sử dụng con bài chủ Hồ Chí Minh để biến cải Việt
Nam thành một phiên bản của nước Tàu, một đứa con hoang của mẫu quốc Hán tộc có
nhiệm vụ cai trị dân Việt theo chỉ thị và quyền lợi của Bắc kinh. Nước Việt Nam
ngày nay còn được Tổng Bí thơ Nguyễn Phú Trọng gọi là nước Hồ Chí Minh tức là nước của một người Tàu. Vì vậy, các lãnh tụ
và quan lại cao cấp Việt Cộng trong hệ thống Đảng và Nhà nước phải được quan thầy
Tàu chuẩn nhận. Các Thái thú bản xứ trong thời đại Hồ Chí Minh có bổn phận phải
tận trung với triều đình Bắc kinh trong nhiệm vụ cai trị 90 triệu dân đen Lạc
Việt. Bù lại, giới cầm quyền tay sai của Bắc kinh, con cháu nhiều đời và gia tộc
của họ được giàu sang, phú quý. Họ không cần phải quan tâm đến sự đau khổ của
quần chúng đã dại khờ tin tưởng và hy sinh mạng sống để cho họ được vinh quang
phục vụ Hán tộc và chủ nghĩa cộng sản. Nhân dân Việt Nam ngày nay được đảng Cộng
sản dạy bảo phải “đời đời nhớ ơn Trung
Quốc” (lời giảng của Đại tá Trần Đăng Thanh) và quên đi các hành động bán nước kể sau của họ:
- Công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm văn Đồng, Thủ tướng nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) công nhận Trung cộng có chủ quyền lãnh thổ
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lợi dụng Công hàm nầy, Trung cộng đã
đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 và đảo Gạc Ma trong
quần đảo Trường Sa năm 1988, công bố bản đồ 9 đoạn để độc chiếm Biển Đông, xây
các đảo nhân tạo ở Biển Đông để lập căn cứ quân sự kiểm soát con đường hàng hải
và hàng không quốc tế xuyên qua vùng biển nầy.
- Ký kết hai hiệp ước ngày 31-12-1999
và 25-12-2000 dưới thời Tổng Bí thơ Lê
Khả Phiêu để nhượng đất và biển cho
Trung cộng. Hai hiệp ước nầy đã được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn mặc dầu rất bất
lợi cho nước Việt Nam so với hiệp ước Pháp-Thanh do Patenôtre và Lý Hồng Chương
ký kết năm 1887 tại Thiên Tân
- Ký kết hợp đồng dưới thời Tổng Bí
thơ Nông Đức Mạnh cho Trung cộng
thuê một phần lãnh thổ trên Cao nguyên Trung phần để gọi là khai thác
bauxite và rừng đầu nguồn của một số tỉnh để gọi là trồng rừng và lập làng Tàu
trên đất Việt.
- Cho phép thành lập dưới thời Tổng
Bí thơ Nông Đức Mạnh một số tô giới
Tàu trên lãnh thổ Việt Nam như Đông Đô Đại Phố tại tỉnh Bình Dương và Khu
Kinh tế tự trị Formosa tại Vũng Áng, Hà Tỉnh. Nông Đức Mạnh, con của Hồ Chí
Minh và Nông thị Ngát, đã tự nhận là người dân tộc thiểu số Choang ở Quảng Tây.
Ngoài các trọng tội nhượng đất và bán biển
kể trên, còn có một số mật ước được giấu kín, không công bố, không cần Quốc Hội
bù nhìn phê chuẩn: mật ước Thành Đô ký kết năm 1990 dưới thời Tổng
Bí thơ Nguyễn văn Linh để sát nhập
nước Việt Nam vào lãnh thổ Trung cộng với cương vị một Khu Tự trị vào năm 2020;
các mật ước do Tổng Bí thơ Nguyễn
Phú Trọng ký kết trong tháng 5, 2015 liên quan đến việc Trung cộng sử dụng
lãnh thổ Việt Nam để giao thương với thế giới qua con đường Tơ Lụa (Silk Road) trên
biển của Tập Cận Bình.
Tiếp theo âm mưu tráo đổi thân phận của Nguyễn Tất Thành đã chết năm 1932 vì
bịnh lao phổi không có thuốc Streptomycin để chửa trị (thuốc trụ sinh nầy
chỉ được ứng dụng trong y khoa từ năm 1951 để điều trị bịnh lao phổi), Trung cộng
đã sử dụng “quyền lực mềm” trong lãnh
vực kinh tế -văn hóa và thỉnh thoảng ra
oai trừng phạt Việt Nam: tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc năm 1979, đánh
chiếm vị trí chiến lược Núi Đất (Lão Sơn) năm 1984 và đảo Gạc Ma năm 1988.
Nói tóm lại,trong thế kỷ 20 và 21, Trung
cộng vẫn tiếp tục theo đuổi việc thực hiện một khát vọng truyền đời của Hán tộc
đã nuôi dưỡng từ thời Xuân Thu-Chiến Quốc: bành
trướng lãnh thổ và thôn tính các nước lân bang bằng cách phát động chiến
tranh và sử dụng các âm mưu gian trá. Xảo thuật giả danh Nguyễn Tất Thành của Hồ
Quang (bí danh của Hồ Tập Chương) trong thế kỷ 20 không khác gian kế buôn vua đời
nhà Tần của Lã Bất Vi đã thi hành trên 200 năm trước Công nguyên. Ngày nay, muốn
thoát khỏi đại họa mất nước và thảm cảnh bị đồng hóa làm người Hán như các bộ tộc
Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử, 90 triệu đồng bào quốc nội phải đứng dậy đòi
hỏi thực hiện quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam do hiệp định Paris 1973 qui định
để phục hồi quyền con người và các quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam. Tự
do, dân chủ và nhân quyền là kết quả của đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Hãy
ghi nhớ lời nói của Thái Dịch Lý Đông A: “Hoa tự do phải tưới bằng máu” .Để “thoát
Trung” và chấm dứt thân phận nô lệ của bọn Thái thú tân thời do Hồ Chí Minh đào
tạo, dân tộc Việt phải noi gương tiền nhân Lạc Việt đấu tranh dẹp tan bọn nội
thù và ngoại xâm từ phương Bắc.
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Mùa Thu California, 2015