“Trước đây, muốn hay không,
chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì mà Trung cộng đề nghị. (Bây giờ), khi
lệnh cấm vận được (phương Tây) tháo dỡ, điều đó sẽ tốt hơn cho mọi người ở Miến
Điện ”
Nay Zin
Latt, cố vấn chính trị của Tổng thống Thein Sein.
Miến
Điện (Myanmar ) – LÀ NHƯỢC TIỂU NHƯNG KHÔNG LÀM CHƯ HẦU!
Manh Kim
Điều gì đã khiến Miến Điện thay đổi tư duy đối ngoại khi can đảm quyết định
tách khỏi quỹ đạo tưởng chừng bất di dịch với Trung cộng để ngả theo trục
phương Tây? Chính là sự tái nhận thức sáng suốt về quyền lợi và chủ quyền quốc
gia. Hơn nửa thế kỷ được “bảo kê” bởi Bắc Kinh, Miến Điện đã ngậm đắng nuốt cay chịu nhiều thiệt thòi.
Trung cộng ngày càng gây sức ép thao túng kinh tế và vơ vét tài nguyên Miến Điện
, từ dầu khí, đồng, gỗ teak, đá quí đến sản vật nông nghiệp... Họ mua vô số đất
đai để làm nông trại nhưng thuê mướn nhân công từ Hoa lục. Nói cách khác, đất Miến
Điện dần được “chuyển quyền sở hữu” sang
người Trung Hoa. Dân Trung Hoa tràn xuống cố đô Mandalay (thành phố lớn thứ hai
Miến Điện ) nhiều đến mức cư dân địa phương có câu nói đùa rằng “Chỉ cần dân Tàu khạc nước dãi thì cũng đủ ngập
để cho người Mandalay bơi rồi!”.
Trung cộng đổ rất nhiều tiền với vô số dự
án đầu tư vào Miến Điện . Tháng 9-2010, Bắc Kinh tuyên bố cho vay 4,2 tỉ USD với
lãi suất zero trong 30 năm để “giúp” Miến Điện xây đập, đường xá, hỏa xa và phát triển công
nghệ thông tin. Tuy nhiên, “chơi” với Bắc Kinh, Naypyidaw chỉ nhìn thấy thiệt.
Họ thấy rõ thủ đoạn “thả con tép bắt con tôm” của Trung Quốc. Tháng 3-2010, tờ
Nhân Dân nhật báo (Hoa lục) cho biết mậu dịch song phương hai nước đạt 2,9 tỉ
USD vào năm 2009, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước và từ (gần bằng) zero vào
cuối thập niên 1980. Tuy nhiên, cái gọi là “song phương” thực chất hầu như chỉ
là một chiều: năm 2009, xuất khẩu Hoa lục sang Miến Điện đạt 2,3 tỉ USD nhưng xuất khẩu ở chiều ngược lại
chỉ vỏn vẹn 646 triệu USD (Asia Times 19-10-2011)...
Nói thêm một chút về địa chính trị. Là
nước lớn thứ hai Đông Nam Á với 1/3 (trong tổng chu vi 1.930 km) hình thành nên
một bờ biển liên tục chạy dọc vịnh Bengal và biển Andaman, Miến Điện đóng vai trò như một ngã tư chiến lược, về biển
lẫn đất liền, tạo thành một điểm kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nắm
được Miến Điện là nắm được một ưu thế địa
chính trị quan trọng. Trung cộng đã nhìn thấy tầm chiến lược địa chính trị Miến
Điện , nơi có biên giới tiếp giáp với họ dài đến 2.000 km, từ rất lâu. Suốt thập
niên 1960 rồi 1970, Trung cộng luôn phủ bóng lên lịch sử Miến Điện .
Đầu thập niên 1991, Trung cộng thậm chí
đưa cố vấn quân sự sang nước này. Từ ảnh hưởng chính trị, họ bắt đầu tạo ảnh hưởng
kinh tế. Như bài viết trên Asia Times (19-10-2011) của Bertil Lintner (nguyên
phóng viên Far Eastern Economic Review, tác giả một số quyển sách về Miến Điện ),
từ thập niên 1980, Trung cộng đã có ý định xây con đập Myitsone. Điều này đã thể
hiện trong một bài viết mang tựa “Mở rộng về phía Tây Nam – ý kiến một chuyên
gia”, đăng trên tờ Beijing Review số tháng 9-1985. Bài viết này đề cập khả năng
tìm một lối ra cho con đường mậu dịch đối với các tỉnh Nam Trung Hoa (Vân Nam,
Tứ Xuyên) vốn bị “khóa” cô lập trong đất liền bởi yếu tố địa lý, bằng cách khai
thông ngả Miến Điện để ra Ấn Độ Dương.
Bài viết cũng nhắc đến việc xây các tuyến hỏa xa Myitkyina và Lashio ở Đông Bắc
cũng như sông Irrawaddy để làm tuyến vận chuyển cho hàng xuất khẩu Hoa lục. Đến
thập niên 1990, Miến Điện đã gần như trở
thành một tỉnh của Trung Hoa, khi được Bắc Kinh tập trung đầu tư với vô số dự
án hạ tầng.
Mục tiêu Bắc Kinh là biến Miến Điện thành một bàn đạp vệ tinh, một vùng đệm giúp hỗ
trợ phát triển kinh tế cho các tỉnh Tây và Nam Trung Hoa. Nói cách khác, đầu tư
hạ tầng cho Miến Điện là đầu tư cho
tương lai phát triển cho chính khu vực phía Nam và Tây Trung Hoa, để không chỉ
có thể giúp các tỉnh này san bằng khoảng cách thu nhập với các tỉnh giàu có
phía Đông của họ mà còn tạo nên ưu thế cạnh tranh kinh tế với láng giềng Ấn Độ.
Đó là một phần của “chính sách hai đại dương” mà giới chính trị học thuật Hoa lục
cổ súy (phải làm chủ cả Thái Bình Dương lẫn Ấn Độ Dương). Thế là loạt dự án hạ
tầng bắt đầu hình thành, từ một xa lộ dẫn đến một hải cảng mới toanh trị giá
nhiều triệu đôla, phục vụ việc xuất khẩu hàng sản xuất ở các tỉnh phía Tây và
Nam Trung Hoa; đến một tuyến ống dẫn hơn 1.600 km đưa dầu Trung Đông và châu
Phi đến các nhà máy lọc ở Vân Nam; đến một tuyến ống dẫn nữa đưa khí đốt Miến
Điện đến thắp sáng cho Côn Minh và Trùng
Khánh; đến hơn 20 tỉ USD đầu tư cho một tuyến hỏa xa cao tốc giúp việc đi lại
xưa kia mất hàng tháng nay có thể chỉ còn không đến một ngày; rồi đến năm 2016,
sẽ có một hệ thống đường sắt đi suốt từ Yangon đến Bắc Kinh hoặc thậm chí tới
Delhi rồi từ đó sang châu Âu…
Quan trọng hơn cả là việc sử dụng Miến
Điện làm trạm trung chuyển dầu hỏa từ
Trung Đông và châu Phi vào sâu trong nội địa Trung Hoa, giúp né được “cửa ải”
Malacca. Do lệ thuộc tuyệt đối nguồn dầu nước ngoài với 80% dầu nhập được đưa về
ngang Malacca, một trong những eo biển nhộn nhịp nhất thế giới mà nơi hẹp nhất
chỉ rộng 2,7 km, Trung cộng rất lo sợ một khi xảy ra xung đột, Malacca có thể bị
đóng cửa và nguồn cung ứng dầu bị ách tắc. Cho nên, bằng mọi cách phải thiết lập
được tuyến ống dẫn ngang Miến Điện .
Một cách tổng quát, trước khi xảy ra cú
bắn pháo hiệu của Tổng thống Thein Sein vào tháng 9-2011 (về việc tạm ngưng xây
đập Myitsone), hay nói chính xác hơn là trước khi Naypyidaw thay đổi quan điểm
đối ngoại, Miến Điện là sân sau của Bắc
Kinh, là đất nhà của hàng chục ngàn di dân Trung Hoa, là thị trường chuyên tiêu
thụ hàng hóa Trung Hoa, là nơi giới doanh nghiệp Trung Hoa mặc sức tác oai tác
quái. Nếu nói không quá thì sinh mạng kinh tế Miến Điện gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Trung cộng.
Một sự nhìn nhận lại vai trò và ảnh hưởng
Trung cộng đã âm thầm diễn ra. Năm 2004, theo bài viết của Bertil Lintner trên
YaleGlobal (5-11-2012), trung tá Aung Kyaw Hla – nhà nghiên cứu thuộc Học viện
quốc phòng Miến Điện – bắt đầu thực hiện
một khảo sát chi tiết. Bản báo cáo tuyệt mật dày 346 trang này, với tựa “Một
nghiên cứu về quan hệ Miến Điện -Hoa Kỳ”, đã phác họa những chính sách bắt đầu
được áp dụng nhằm có thể cải thiện quan hệ với Washington đồng thời giảm lệ thuộc
Bắc Kinh. Nội dung báo cáo nói rằng, việc xem Trung cộng là một đồng minh ngoại
giao và nhà bảo trợ kinh tế đã tạo ra một “tình huống khẩn cấp” đe dọa sự độc lập
quốc gia. Báo cáo viết rằng, chỉ bằng cách cải thiện quan hệ với Mỹ, Miến Điện mới có thể tiếp cận nguồn hỗ trợ tài chính từ
Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế, giúp đất nước lần hồi thoát khỏi “chủ
nghĩa khu vực”, nơi họ phải lệ thuộc vào ý chí và quan hệ với những láng giềng
trực tiếp trong đó có Hoa lục, để “bước vào một kỷ nguyên mới của toàn cầu hóa”…
Có thể tóm gọn lý do khiến Miến Điện từ bỏ “hũ mật Trung Hoa” để uống “chén đắng
phương Tây” - nếu nhìn ở góc độ thường được xem là “an toàn chính trị” đối với
một chế độ – qua một nhận định của Nay
Zin Latt, cố vấn chính trị của Tổng thống Thein Sein: “Trước
đây, muốn hay không, chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì mà Trung cộng đề
nghị. (Bây giờ), khi lệnh cấm vận được (phương Tây) tháo dỡ, điều đó sẽ tốt hơn
cho mọi người ở Miến Điện ”.
Nói cách khác, Miến Điện hiểu rằng, chỉ
với thiện chí thật sự cải tổ theo đường hướng có lợi dân tộc, họ không chỉ có
thể tự cởi trói và thoát được “án” cấm vận mà nhờ đó còn hạn chế lệ thuộc Trung
cộng, về lâu dài.
Ý nghĩa lớn nhất trong câu chuyện dân chủ
của Miến Điện là vấn đề địa chính trị
không phải là rào cản lớn nhất để lấy đó làm cái cớ biện dẫn cho sự cúi đầu làm
chư hầu. Chỉ 19 năm sau khi lập quốc từ bàn tay không với một nhúm người tha
phương từ khắp nơi thế giới quần tụ lại, không có gì trừ ý chí dân tộc mãnh liệt,
Israel đã kiên cường chống chỏi sự vây bủa khốc liệt và chiến thắng trước những
con hổ dữ Arab trong cuộc chiến 7 ngày. Và đến nay, Israel vẫn luôn bị đe dọa
và vẫn tiếp tục lớn mạnh hơn trong sự đe dọa thường trực đó, bất luận yếu tố lịch
sử lẫn yếu tố địa lý vô cùng phức tạp, bởi còn xen lẫn bởi yếu tố tôn giáo.
Đừng
lấy cái gọi là “lời nguyền địa lý” và “lời nguyền lịch sử” để tự gánh lên vai
cái lối ngụy biện hàm hồ về việc “chúng
ta không còn con đường nào khác là phải chấp nhận lệ thuộc Trung Quốc!”. Đó
là cái não trạng mặc cảm khiếp nhược của những kẻ hèn hạ, bao biện cho tư duy
chính trị của những kẻ bán nước hèn hạ bội lần. Làm thế nào có thể thoát Trung
khi còn có kiểu suy nghĩ tăm tối như vậy?
Làm thế nào có thể thoát Trung khi mà
vẫn không chấp nhận một nền chính trị dân chủ như Miến Điện hay Philippines, để người dân có thể bày tỏ ý
nguyện thoát Trung và nhìn thấy được kết quả từ ý chí thoát Trung đồng nhất của
dân tộc thông qua lá phiếu?