„Tránh dùng thuật ngữ
“lãnh hải” (lǐnghǎi) và thay vào đó, Trung cộng sử dụng thuật ngữ “vùng nước
ngoài khơi” (jìnàn shǔiyù) và “vùng biển lân cận” (fùjìn hǎiyù).“
„Bằng cách tránh dùng thuật
ngữ “lãnh hải” và tránh bất kỳ tuyên bố rõ ràng nào nhằm tạo cơ sở để gọi hành
động của Mỹ là bất hợp pháp, phần lớn các viên chức nhà nước Trung cộng như
thường lệ, cố thận trọng giữ tính chất mơ
hồ của chữ nghĩa đặc biệt trong các yêu sách của Trung cộng ở Biển Đông.“
Trung cộng duy trì sự mơ hồ mang tính chiến lược ở Biển Đông như thế nào?
Graham Webster (The Diplomat)
Trung cộng duy trì sự mơ hồ mang
tính chiến lược ở Biển Đông như thế nào?
Phản ứng
chính thức của chính phủ của Trung cộng trước hoạt động “tự do hàng hải” (FON)
của hải quân Mỹ trong khu vực 12 hải lý của một hòn đảo do Trung cộng tạo ra và
chiếm đóng ở biển Đông là một câu đố đa ngôn ngữ. Nhưng nghiên cứu cẩn thận
phiên bản tiếng Hoa các báo cáo của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng cho thấy họ
cực kỳ tinh tế trong ngôn từ và một nỗ lực dường như có phối hợp nhằm duy trì
sự mơ hồ mang tính chiến lược về những câu hỏi quan trọng về quan điểm của Trung
cộng.
Các quan
chức Trung cộng có tin rằng hải quân Mỹ đã vi phạm chủ quyền của Trung cộng hay
không? Không rõ. Họ có tuyên bố chủ quyền hàng hải xung quanh những hòn đảo
được xây dựng, vượt quá những quyền mà Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) cung
cấp hay không? Không rõ ràng. Họ có xác định chính xác lý do vì sao hành động
của Mỹ lại được coi là bất hợp pháp hay không? Không hẳn – nhưng cánh cửa vừa
hé mở.
Báo cáo
chính thức của Trung cộng gần như không có kẽ hở nào trong việc giữ cho những
câu hỏi này không có câu trả lời, trừ vấn đề sẽ được thảo luận bên dưới. Làm
như vậy đòi hỏi phải thay đổi trong ngôn từ giữa những tuyên bố trước đó, tức
là những tuyên bố nhằm cảnh báo chống lại các hoạt động FON và những lời phản
đối được đưa ra trong tuần này, sau khi sự kiện đã xảy ra. Trong tháng 5, Hoa
Xuân Oánh, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao đã cảnh báo Mỹ, không được “vi phạm
(qīnfàn) chủ quyền của Trung cộng và đe dọa (Weihai) an ninh quốc gia của Trung
cộng”. Nhưng đầu tháng này, Hoa Xuân Oánh lại phản đối “hành vi xâm phạm
(qīnfàn) lãnh hải (lǐnghǎi) và vùng trời (lǐngkōng) của Trung cộng”.
Việc sử dụng
thuật ngữ “lãnh hải” cụ thể về mặt pháp lý và từ qīnfàn (dịch là “vi phạm” hay
“xâm phạm”) – và một thuật ngữ được sử dụng trong bối cảnh tương tự gọi là
“quốc hữu hóa” quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư) của Nhật bản, đặt chính phủ Trung
cộng trước thách thức. Nói chung, theo UNCLOS, chỉ có những thực thể – trước
khi có bất kỳ xây việc xây dựng nào – nổi trên mặt nước khi thủy triều lên là
có thể có lãnh hải 12 hải lý mà thôi. Nếu Hải quân Hoa Kỳ đi vào trong khu vực
12 hải lý của hòn đảo do con người xây dựng (thuật ngữ mà tôi sử dụng cho những
thực thể nổi lên khi thủy triều xuống), và chính phủ Trung cộng nói về “lãnh
hải” hoặc phàn nàn về vi phạm (qīnfàn) chủ quyền, tức là Trung cộng đưa ra
tuyên bố ngấm ngấm, không được UNCLOS ủng hộ.
Trên thực
tế, sứ mệnh của Mỹ được thiết kế rõ ràng nhằm quản lý chính cuộc thử thách bằng
cách đi vào vùng 12 hải lý xung quanh công trình xây dựng trên bãi Vành Khăn
(Subi Reef), tức là bãi cạn mà mọi người đều công nhận rằng lúc đầu nó chỉ nổi
lên trên mặt nước khi thủy triều xuống. Các quan chức Trung cộng có mắc bẫy hay
không?
Phát ngôn
viên Bộ Ngoại giao, Lu Kang, đã đưa ra những phản ứng chi tiết đầu tiên. Lu
Kang khẳng định rằng tàu chiến Mỹ “xâm nhập trái phép vùng biển gần” những thực
thể ở biển Đông. Đối với “vùng biển gần”, ông ta không sử dụng thuật ngữ Trung Hoa
dùng cho lãnh hải, thay vào đó, ông ta gọi là línjìn hǎiyù, nghĩa đen là “gần”
hay “lân cận”. Lu Kang nói rằng hoạt động của Mỹ “đe dọa (wēixié) chủ quyền và
an ninh của Trung cộng”, nhưng ông ta không nói những lợi ích đó bị vi phạm hay
xâm phạm. Sau đó, trong tuyên bố, Lu Kang khẳng định rằng chủ quyền của Trung
cộng trên “Quần đảo Nam Sa và vùng biển lân cận (Fujin
hǎiyù)”, tức là sử dụng một cách mỉa mai thuật ngữ khác của Trung cộng,
khác với thuật ngữ mà người ta nói rằng Mỹ đã thâm nhập vào.
Cuối cùng,
làm nhẹ bớt lời cảnh báo trước đó của Hoa Xuân Oánh nhằm chống lại việc sử dụng
FON như một cái cớ để “vi phạm” chủ quyền, Lu Kang nói rằng Trung cộng phản đối
sử dụng FON như một cái cớ để “làm hại (sǔnhài) … chủ quyền và an ninh của Trung
cộng”. Cuối cùng, Lu Kang kêu gọi Mỹ tránh hành động “gây phương hại (wēixié)
tới chủ quyền và an ninh của Trung cộng”, tức là trở lại với động từ được dùng
nhằm mô tả những điều mà Lu Kang đã cáo buộc Hải quân Mỹ làm trong ngày hôm đó.
Trong tuyên
bố này, Lu Kang tránh đưa ra quan điểm rõ ràng hay ám chỉ việc: liệu Vành Khăn (Subi Reef) có thể tạo ra lãnh hải 12 hải hay
không, liệu hải quân Mỹ có vi phạm chủ quyền của Trung cộng hay không, Trung
cộng tuyên bố chủ quyền trên những khu vực cụ thể nào, và ngưỡng leo thang
trong những cuộc đối đầu trong tương lai nằm ở đâu. Quả là một kỳ công
và được thứ trưởng Ngoại giao Zhang Yesui lặp lại, như được trình bày trong
cuộc gặp với đại sứ Mỹ, Max Baucus.
Nhưng chưa
hết. Trong khoảng thời gian này, người phát ngôn Bộ Quốc phòng, Yang Yujun,
cũng đưa ra tuyên bố của mình. Yang cũng tránh thuật ngữ “lãnh hải” (lǐnghǎi), thay vào đó, ông ta sử dụng
thuật ngữ “vùng nước ngoài khơi” (jìnàn shǔiyù)
và “vùng biển lân cận” (fùjìn hǎiyù). Yang
tránh gọi hành động của Mỹ là bất hợp pháp, nhưng gọi là sự lạm dụng (lànyòng)
quyền tự do hàng hải được luật pháp quốc tế quy định. Yang tuyên bố rằng hành
động của Mỹ là đe dọa nghiêm trọng (yánzhòng wēixié) đối với an ninh quốc gia
của Trung cộng (mặc dù không nhất thiết phải là đe dọa chủ quyền), và kêu gọi
Mỹ tôn trọng mối quan tâm của Trung cộng về chủ quyền và an ninh quốc gia.
Bằng
cách tránh dùng thuật ngữ “lãnh hải” và tránh bất kỳ tuyên bố rõ ràng nào nhằm
tạo cơ sở để gọi hành động của Mỹ là bất hợp pháp, phần lớn các viên chức nhà
nước Trung cộng như thường lệ, cố thận trọng giữ tính chất mơ hồ của chữ nghĩa đặc biệt trong các
yêu sách của Trung cộng ở Biển Đông. Bằng cách làm như vậy, họ đã phủ nhận một
trong những mục tiêu của các nhà lập kế hoạch của Mỹ trong việc tiến hành các
hoạt động FON nhằm buộc các quan chức cứng đầu của Trung cộng phải đưa ra tuyên
bố khó có khả năng tìm được sự ủng hộ trong luật pháp quốc tế.
Nhưng người
ta phải từ bỏ một vài sự không rõ ràng. Ngày 28 tháng 10, Lu Kang tuyên bố: “Những gì Mỹ đã làm
vi phạm (wéifǎn) Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển cũng như bộ luật liên quan
của Trung cộng”. Nếu những tuyên bố trong tương lai xác nhận quan
điểm của Trung cộng cho rằng hành động của Mỹ là vi phạm UNCLOS, chính phủ Mỹ
sẽ có những câu hỏi rất chính đáng. Chính phủ Trung
cộng dựa vào thẩm quyền nào để tuyên bố về chủ quyền trên những vùng biển đó? Trung
cộng có khẳng định lãnh hải xung quanh bãi Vành Khăn (Subi Reef) hay không? Nếu
thế, làm sao con tàu đó lại vi phạm những quy định về việc tự do đi lại như
được nêu trong UNCLOS? Cách khác, Trung cộng có
khẳng định khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) ở Biển Đông hay không? Nếu thế, ranh giới của nó nằm ở đâu, và điều gì làm cho Trung
cộng cáo buộc tàu Mỹ đã vi phạm quy định của UNCLOS cho phép hoạt động quân sự
trong vùng EEZ?
Luật pháp
quốc tế tiến hóa thông qua các tiền lệ và hoạt động thực tế, và đang có những
bất đồng chính đáng trong giới hàn lâm và ngoại giao về cách áp dụng UNCLOS.
Nhưng hiện nay, các quan chức thận trọng của Trung cộng không để cho đối thủ
những căn cứ cụ thể để có thể tranh luận.
Tác giả bài
viết là Graham Webster – một nhà nghiên cứu, giảng viên và cộng tác viên chính
tại Trung tâm Trung Hoa (The China Center) ở Yale Law School.
Phạm Nguyên
Trường dịch (VNTB)
Nguồn: The Diplomat