Một người Việt tại Mỹ vừa trao tặng UBND huyện Hoàng
Sa, Đà Nẵng, một tấm bản đồ được cho là có từ những năm đầu thế kỷ 19, trong đó
xác định quần đảo Hoàng Sa thuộc về Đế chế An Nam (Việt Nam).
Tin từ báo chí Việt Nam cho hay Tiến sĩ Trần Thắng,
Chủ tịch Viện Văn hóa – Giáo dục Việt Nam ở Mỹ đã mua được tấm bản đồ Partie de
la Cochinchine do nhà địa lý học nổi tiếng Phillipe Vandemaelen, người sáng lập
Viện địa lý Hoàng gia Bỉ, vẽ từ một người Mỹ với giá 100 đôla. Trong dịp về Việt
Nam ăn Tết, ông Thắng đã tặng huyện Hoàng Sa tấm bản đồ vào ngày 10/1.
Tấm bản đồ nằm trong bộ Atlas Thế giới và được xuất
bản năm 1827. Trong bản đồ có phần giới thiệu tóm tắt về Đế chế An Nam và phần
bản đồ xác định Hoàng Sa thuộc về đế chế này.
Một nhà nghiên cứu Biển Đông, ông Lê Công Giàu,
nguyên Phó bí thư Thành đoàn thành phố Sài Gòn, nói đây là một cơ sở rất tốt để
chứng minh chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa nếu tấm bản đồ trên được xác định
là có giá trị.
“Nếu mình có
những bản đồ có giá trị thì đó là những cơ sở rất tốt để mình chứng minh đất nước
Việt Nam là như thế nào. Cái đó rất cần thiết. Mà ở Việt Nam thì hiện nay chưa
có nhiều thông tin về cái này”.
Theo ông Lê Công Giàu, Việt Nam hiện chưa phát huy
được những tiềm lực từ dân chúng trong việc tập hợp các tư liệu chứng minh chủ
quyền của mình ở Biển Đông. Ông cho biết:
“Ở Việt Nam hiện
nay chỉ có những thông tin về bản đồ do nhà nước công bố thôi. Còn của tư nhân
nghiên cứu thì rất ít. Có thể có nhưng không được công bố. Đó là điều không được
tốt lắm. Đáng lẽ những vấn đề như thế thì nên một mặt là nhà nước công bố,
nhưng phải để cho tư nhân, những nhà nghiên cứu họ nghiên cứu được cái gì thì họ
công bố để mọi người cùng tham khảo. Cái đó tốt hơn là chỉ có nguồn tin nhà nước”.
TS. Trần Thắng là người chuyên sưu tầm bản đồ để khẳng
định chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Ông đã tặng cho Việt Nam 150 tấm bản đồ
và 3 cuốn Atlas do Trung Hoa và nhiều nước trên thế giới xuất bản.
Đọc
thêm:
Nhiều bằng chứng giá trị khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam
Nằm trong chương trình sưu tầm các bằng chứng pháp
lý về chủ quyền biển đảo, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức công bố bộ 6
tập Atlas Thế giới do nhà địa lý học Philippe Vandermaelen (Vương quốc Bỉ) vẽ
cách đây gần 200 năm.
Bộ trưởng Bộ Thông tin &Truyền thông
Nguyễn Bắc Son trả lời phỏng vấn báo chí tại buổi lễ
Bộ Atlas thế giới của Philippe Vandermaelen
(1795-1869) xuất bản năm 1827 tại Bruxelles là một bằng chứng hùng hồn về giá
trị pháp lý quốc tế cao, bổ sung vào kho bằng chứng khổng lồ chứng minh Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Ngày 13/5/2014, phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ
Thông tin &Truyền thông Nguyễn Bắc Son đánh giá bộ Atlas thế giới của
Philippe Vandermaelen là tài liệu khoa học, pháp lý quan trọng góp phần khẳng định
chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa.
Là một trong những người có công sưu tầm, nghiên cứu
và đưa bộ Atlas thế giới của Philippe Vandermaelen về Việt Nam, GS.TS Nguyễn
Quang Ngọc – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện
Việt Nam học và Khoa học Phát triển ĐHQGHN cho biết theo tập bản đồ này, Việt
Nam được giới thiệu trong các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110 đều có ghi chú rõ
ràng, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) thuộc chủ quyền của Đế chế An Nam (Empire
d’An-nam).
Theo GS. Ngọc, tờ bản đồ Partie de la Cochinchine (tờ
số 106 – Châu Á) là bản đồ đầu tiên đã vẽ một cách tuyệt đối chính xác vị trí
(kinh độ, vĩ độ), đặc điểm địa lý, tên gọi phương Tây của các đảo lớn nhất và
quan trọng nhất trong quần đảo Hoàng Sa. Bản đồ đặt trong khu vực Cochinchine
là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của Đế chế An Nam, minh chứng một cách
rõ ràng và chuẩn xác chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa đã được quốc tế
ghi nhận.
Bản đồ khu vực Châu Á được xếp trọn trong một tập (tập
thứ hai) của bộ Atlas với 110 bản đồ của hầu hết các quốc gia Châu Á đương thời.
Việt Nam hay Đế chế An Nam (Empire d’Annam) khi đó được giới thiệu thông
qua 3 tấm bản đồ: Tờ số 97, trang 108 về Bắc Kỳ (Tunquin); tờ số 105,
trang 115 về Campuchia và Nam Kỳ (Cambodge et Annam) và tờ số 106, trang
116 về vùng duyên hải, hải đảo và biển khu vực Trung Kỳ (Partie de la Cochinchine).
Tờ bản đồ Partie de la Cochichine vẽ liền một
mảnh rộng ngang khổ giấy A3, vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 (khu vực
tương đương với tỉnh Khánh Hòa hiện nay, mà trên bản đồ có địa danh BINK-KANG
(Bình Khang) và NHIATRANG (Nha Trang) đến vĩ tuyến 16 (khu vực tương đương với
tỉnh Quảng Nam hiện nay, mà trên bản đồ ở phía ngoài bờ biển có địa danh
CHAMPELLA (Cù Lao Chàm). Phía ngoài khơi, PARACELS (Hoàng Sa) được thể hiện khá
chi tiết và chuẩn xác trong khoảng từ vĩ độ 16 đến 17 và kinh độ từ 109 đến
111. Quần đảo
PARACELS trong bản đồ có các đảo I. Pattles, I. Duncan ở phía tây; Tree. I và
I. Lincoln, Bocher au dessas de l’eau ở phía đông và Triton ở phía tây nam,
ngay dưới vĩ tuyến 16; Investigateur ở sâu xuống phía nam khoảng vĩ tuyến 14,5
và đường đánh dấu phạm vi biển nông hay dải cát nằm ở độ sâu từ 5 đến 10 mét
còn kéo dài đến vĩ độ 14, ngang với QUIN HONE (Quy Nhơn) nằm ở phía trong đường
bờ biển.
Bên cạnh khu vực
được xác định là Hoàng Sa (PARACELS), bản đồ có một bản giới thiệu tóm tắt về Đế
chế An Nam (Empire d’An-nam), bao gồm các nội dung Phisique (tự nhiên),
Politique (chính trị), Statistique (thống kê) và Minéralogie (khoáng sản).
Bắt đầu từ thế kỷ
XVI đã có một số bản đồ phương Tây vẽ về khu vực Đông Ấn có đánh dấu địa danh
Pracel hay Paracels (Hoàng Sa) ở giữa Biển Đông và khu vực bờ biển phía tây
Pracel hay Paracels (tương đương với bờ biển miền Trung Việt Nam) được quan niệm
là Costa de Paracel (bờ biển Hoàng Sa). Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng
đó là minh chứng hùng hồn về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa đã có chí ít từ
thế kỷ XVI.
GS Ngọc cho biết cùng trong bộ Atlas Thế giới, nhà địa
lý học Philippe Vandermaelen cũng thể hiện rõ ràng đường biên giới của Trung Hoa.
Cụ thể, tấm số 98 vẽ đường biên giới của Việt Nam với Trung Hoa và điểm cực nam
của Trung Hoa kết thúc ở vĩ độ 22. Còn đường biên giới biển của Trung Hoa chỉ đến
phía trên vĩ tuyến 18.
GS Nguyễn Quang Ngọc cho biết tất cả các bản đồ của Trung Hoa và các bản đồ phương Tây từ
thế kỷ XX trở về trước đều cho thấy cực nam của Trung Hoa là ở đảo Hải Nam,
trên vĩ tuyến thứ 18. Và cách thể hiện biên giới của Trung Hoa tại Atlas
của Philippe Vandermaelen cũng trùng với bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư
toàn đồ của Trung Quốc (1904), hai bản đồ này đều thể hiện cực nam của Trung Hoa
chỉ tới đảo Hải Nam. Còn khu vực quần đảo Hoàng Sa (Paracels) là của Việt Nam.
“Bộ Atlas này có thể được coi là một tài liệu vô giá, là bằng chứng
hùng hồn, có giá trị pháp lý cao khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Hoa dùng vũ lực cưỡng
chiếm từ năm 1974”, GS Ngọc nhận định.
Trả lời phỏng vấn Đài truyền hình Việt Nam, bà Marguerite
Sylvestre, là chuyên gia phụ trách phông lưu trữ Philippe Vandermaelen tại Thư
viện Hoàng gia Bỉ cho biết, năm 1825, Philippe Vandermaelen bắt đầu thực hiện kế
hoạch vẽ và xuất bản bộ Atlas thế giới. Đây là bộ Atlas đầu tiên trên thế giới
được vẽ chung cùng một tỉ lệ, với kích thước lớn, và cũng là lần đầu tiên trên
thế giới xuất hiện một số vùng đất, ví dụ như Mỹ, bản đồ chung giữa Bắc Mỹ và
Nam Mỹ, Australia v.v.. Bộ Atlas của Philippe Vandermaelen bao gồm 400 tờ với 6
tập trong đó Việt Nam có 4 tờ và một chú thích về Vương quốc An Nam vẽ năm
1826. Chú thích này viết bởi A.Detavaute, là người gốc Pháp. (xem
bản dịch phía dưới bài)
Theo bà Marguerite Sylvestre: “bộ Atlas này được vẽ theo hình chiếu nón nên khi chúng ta cắt từng tờ
và ghép lại, có thể tạo thành quả địa cầu có đường kính 7,75 m. Tôi xin chú
thích thêm rằng đây là bộ Atlas đầu tiên trên thế giới được in litô với tỷ lệ lớn
vì lúc đó việc in bản đồ bằng litô rất lâu và tốn kém. Philippe Vandermaelen đã
sử dụng đường kinh độ và vĩ độ để vẽ bản đồ nên chúng ta có thể biết được vị
trí chính xác của các vùng đất trên thế giới. Đây cũng là bộ Atlas đầu tiên
trên thế giới sử dụng hệ tọa độ chính xác ở thời kỳ đó”.
PHILIPPE
VANDERMAELEN (1795-1869)
Sinh
23/12/1795 tại Bruxelles trong một gia đình giàu có vùng Louvain, có thiên bẩm
về bản đồ học.
Năm
1816 thành chuyên gia lớn, dồn toàn bộ tâm sức cho vẽ và in bản đồ. 1827 hoàn
thành bộ Atlas Thế giới.
Năm
1829 là thành viên Viện Hàn lâm Hoàng gia các ngành khoa học và mỹ văn Vương
quốc Bỉ.
Năm
1830 sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bruxelles, thành lập công ty bản đồ và xưởng
in litô.
|
Trong một bài báo từ năm 2011 về Hoàng Sa, Trường
Sa, GS. Nguyễn Quang Ngọc đã viết: Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng
Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực
tài liệu chính thức của Vương triều và tài liệu của các học giả.
Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng
Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu
thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát
Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”
năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường
biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm
1817...
Hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh.
Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng
cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá
và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái
người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi
cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa, đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10
bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân
chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc
đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh
thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những
người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng;
còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng...
Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh,
Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soạn bộ Minh Mệnh chính yếu, trong
đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được
cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở
Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua “sai quan tỉnh
tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn…”. Điều
này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn
chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam
với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo này.
Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ cho
thấy điểm cực nam của Trung Hoa là điểm cực nam của đảo Hải Nam
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua
ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật....
được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có
đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản
đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục chính biên.
Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục
chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia,
đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tàu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn
nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về
bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống như Phủ biên tạp lục.
Việt sử cương giám khảo lược là
bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc
điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn
nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải,
thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa...
Đại Nam nhất thống chí do
Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường
Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ
biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục.
Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở
gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ
cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt
có đến hơn 2.000 cân”.
Sử học bị khảo của
Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng
Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm)”.
Bộ Trưởng Bộ TTTT nhận bộ Atlas Thế giới
từ ông Ngô Chí Dũng, tổng giám đốc Công ty Dược phẩm ECO (đơn vị tài trợ
cho việc sưu tập) trước sự chứng kiến của đông đảo các cơ quan báo chí trong và
ngoài nước.
Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn
Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả
suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã
từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại
của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng
góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách
vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao
của bản đồ hàng hải các nước phương Tây đương đại.
Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao
để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền
của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo
sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số
tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước
phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835
và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà
Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu
của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837),
về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không
xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết
đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở),
còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được...
Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực
tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan
trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới
thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung
thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng
Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở
phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Vào năm 1830 cũng
đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản
thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống
toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.
Bản đồ Việt Nam đầu thế kỷ XIX đường
biên giới Trung Hoa và Việt Nam được phân định rõ ràng
Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ
có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp truyền thống
như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư
địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục...
Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế
là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy
cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi
nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất.
Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn
Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một
người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825)
trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ
Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà
theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo
có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá
ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu
được quần đảo này".
Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi
chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác
nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức
thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ
quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận
biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội
Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, Biền binh, Vệ giám thành mà cả binh đinh,
dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước
dưới hình thức “tờ sai để thi hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp
chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc
công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp
hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ
đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những
người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở
Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà
không có về. Thậm chí có khi người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang
trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương
đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là trách nhiệm
của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được
viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như
thế.
GS. Nguyễn Quang Ngọc trả lời báo chí tại
buổi công bố bộ Atlas Thế giới của Philippe Vandermaelen
Để kết luận bài báo, GS. Nguyễn Quang Ngọc đã mạnh mẽ
khẳng định, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những
trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết
trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.
GS.
Nguyễn Quang Ngọc cho biết, việc sưu tầm bộ bản đồ này rất đặc biệt, bộ bản đồ
được một nghiên cứu sinh Việt Nam tại Pháp, phát hiện tại hiệu sách cổ
Sanderus, số 32 Nederkouter, thành phố Gent, nước Bỉ.
Ông
Ngô Chí Dũng, tổng giám đốc Công ty Dược phẩm ECO, đã tài trợ kinh phí cho việc
khảo sát 5 bộ Atlas Thế giới của Philippe Vandermaelen ở các thư viện quốc
gia Pháp, Bỉ, thư viện Địa lý Hoàng gia Bỉ, thư viện Trường ĐH Y Paris. GS.
Nguyễn Quang Ngọc đã tham khảo, thảo luận và thống nhất đánh giá với các
chuyên gia địa lý học, bản đồ học, sử học, luật học, thư viện học ở Paris,
Bruxelles để có cơ sở xác định bộ Atlas này là bộ gốc xuất bản tại Bruxelles
năm 1827.
Sau
khi khẳng định nguồn gốc đây là bản gốc, bộ Atlas này đã được mua và đưa về
Việt Nam giúp nâng cao giá trị khoa học, cơ sở lịch sử và giá trị pháp lý quốc
tế, đóng góp vào công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của
Việt Nam.
|
GS. Nguyễn Quang Ngọc với bộ Atlas Thế
giới tại Thư viện Quốc gia Pháp
Vương quốc
An Nam (Bản dịch từ tiếng Pháp tại tờ bản đồ số 106)
Bùi Tuấn - VNU Medi