Chuyện cũ Saigon: Giấc mơ
triệu phú
Nguyễn Ngọc Chính
Hằng tuần vào lúc 4 giờ chiều
ngày thứ Tư và thứ Sáu, người Sài Gòn xưa vẫn thường nghe “quái kiệt” Trần Văn
Trạch (1) hát bài “xổ số kiến thiết” qua đài phát thanh trước khi nghe chương
trình trực tiếp truyền thanh hoặc đến tận rạp Thống Nhất trên đường cùng tên để
tận mắt xem mở số. Chương trình còn có các ca sĩ giúp vui xen kẽ các lần xổ lô
trúng giải.
Sẽ không thể nào quên được giọng hát trầm ấm của Trần Văn Trạch với những lời kêu gọi, thúc giục mọi người mua vé số để “kiến thiết quốc gia”:
Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà
Tô điểm giang san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng
Triệu phú đến nơi
Năm muời đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi
Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam
Mua số mau lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số… gần… đến…
Tiền thân của Vé số Quốc gia
là Vé số Đông Dương hay còn gọi là Đông Pháp (Loterie Indochinoise) được phát
hành thời Pháp thuộc từ năm 1935, có in các thứ tiếng: Pháp, Việt, Hoa và
Cămpuchia. Giá tiền ghi trên vé số là 1 đồng Đông Dương với tổng số tiền trúng
giải là 300.000 đồng.
Vào năm 1935, các giải trúng
gồm 8 lô, thấp nhất là 1.000 vé trúng 25 đồng và cao nhất là lô độc đắc lên đến
100.000 đồng. Năm 1937, tổng số tiền giải thưởng là 900.000 đồng, trong đó có
lô độc đắc trúng 6.000 đồng. Đến năm 1939, tổng số tiền trúng giải hạ xuống còn
800.000 đồng với vé trúng độc đắc 4.000 đồng và thấp nhất là 4.000 vé trúng 10
đồng.
Người ta nhận thấy giải độc
đắc càng về sau càng xuống thấp nhưng các giải khác có số lượng trúng tăng cao.
Giá trị của giải thưởng cũng thay đổi, từ thấp nhất 25 đồng với 1.200 lô năm
1935 đến 10 đồng 6.000 lô năm 1937 và 4.000 lô năm 1939.
Vé số Quốc Gia là tiếp nối của
Vé số Đông Dương, sau khi Pháp trao trả độc lâp cho Việt Nam vào năm 1951. Vé
số thời kỳ này chỉ mở hàng tháng hay vài tháng một lần, chứ không xổ hằng tuần
như sau này. Vé số do Bộ Kế hoạch và Kiến thiết Quốc gia phụ trách phát hành
với chữ ký của Tổng trưởng và Đại lý Tổng giám đốc Ngân khố.
Tờ vé số đầu tiên của Quốc gia
Việt Nam được xổ ngày 31/12/1951 với giá 10 đồng, được in bằng 3 thứ tiếng
Việt, Pháp và Hoa ở mặt sau với 80.834 số trúng, tổng cộng trị giá giải thưởng
12.500.000 đồng. Giải độc đắc 1.000.000 đồng và thấp nhất là giải 100 đồng (có
đến 75.000 vé trúng).
Điểm đặc biệt đáng lưu ý là
tại mặt sau của tờ vé số có ghi: “Quá hạn
6 tháng sau ngày xổ số, những số trúng không tới lãnh sẽ xung vào quỹ Quốc gia
Kiến ốc cục”. Đây là quỹ xây dựng nhà ở trong chương trình phục vụ dân sinh
của chính phủ.
Sang đến thời Đệ nhất và Đệ
nhị Việt Nam Cộng hòa, hình thức thiết kế trên vé số có phần thay đổi, thường
là họa tiết phong cảnh các miền của đất nước, ngay cả Chùa Một Cột, Hồ Gươm và
cầu Thê Húc khi đó đang thuộc miền Bắc cũng được in trên vé số ở miền Nam.
Người ta thấy ở mặt sau vé số
phát hành năm 1955, tiếng Pháp đã được thay bằng tiếng Anh còn tiếng Hoa vẫn
được giữ nguyên. Giá tiền vẫn 10 đồng, không khác gì thời Pháp thuộc.
Ngoài vé số kiến thiết, từ
1954 tới 1975 còn có rất nhiều loại vé số từ thiện, còn được gọi là vé số
Tombola, nhằm mục đích gây quỹ hay hỗ trợ cho các cơ sở từ thiện trong cộng
đồng. Vé số loại này có thể được phát hành bởi tổ chức tôn giáo như Phât giáo,
Công giáo, Cao Đài, Tuyên Uý… hoặc cơ sở chính quyền nhỏ hay một vài đơn vị
quân đội.
Giá mỗi vé là 5 hay 10 đồng,
tương đương với một tô phở bình dân hay một bữa cơm cho người nghèo tại các cửa
hàng cơm xã hội thời bấy giờ. Tất cả các vé số đều có các giải thưởng bằng hiện
vật do các nhà hảo tâm hiến tặng, không có giải thưởng bằng hiện kim.
Ngày mở số của những vé số này
có thể bị hoãn do tình trạng bán vé quá chậm, ít người mua. Tuy nhiên, nếu hoãn
đều có thông báo trên các phương tiện truyền thông. Đến ngày mở số sẽ có thông
báo phổ biến kết quả xổ số một cách rộng rãi trên báo chí và đài phát thanh.
Thật tình, tôi là người cả đời
chưa bao giờ mua vé số nhưng cũng có đôi lần sở hữu những tấm vé số bạn bè thân
tặng để “chúc mừng năm mới” lấy hên. Tôi nghĩ đây là một cách ứng xử khôn khéo
và tế nhị khi ngoài những câu chúc tụng người chúc còn kèm theo một tờ vé số
thay vì tiền lì xì.
Cầm tờ vé số trong tay là bạn
có quyền bắt đầu một giấc mơ “triệu phú”… cho đến khi vé số được xổ. Cũng vì
thế có một triết gia nào đó đã ví hôn nhân như một cuộc xổ số, người ta chỉ
biết mình có hạnh phúc hay không sau khi đã chấp nhận “một nửa của mình” qua tờ
hôn thú cũng tựa như nắm trong tay tấm vé số chưa xổ.
Nói như vậy thì cũng hơi quá.
Không thể đánh đồng một cuộc hôn nhân với tấm vé số vì cả hai đều thuộc về phạm
trù khác hẳn nhau. Hôn nhân có thể bi quan hay lạc quan suốt cả cuộc đời còn vé
số chỉ là chuyện may rủi trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Hơn nữa, người
ta có thể mua vé số nhiều lần nhưng chuyện hôn nhân thì chỉ có một lần, trừ
khi… nửa đường gãy gánh.
Trở lại với chuyện vé số. Sau
năm 1975, vé số hầu như “tuyệt chủng” ở miền Nam, vì chính quyền mới coi vé số
là một hình thức cờ bạc, tàn dư của “chế độ Tư bản đang giẫy chết”. Người ta
không biết vì lý do gì mà đến năm 1979 vé số lại bắt đầu nở rộ ở miền Nam cho
tới ngày nay!
Ngày xưa cả miền Nam mỗi tuần
chỉ có vài vé trúng độc đắc còn ngày nay thì 64 tỉnh thành ở Việt Nam đều in vé
số, như vậy là có đến hàng chục “tân triệu phú” mỗi tuần. Một con số không biết
đáng mừng hay đáng lo vì hình như mua vé số trở thành một cái “gien di truyền”
trong xã hội ngày nay. Chưa kể biến tướng của vé số là anh bạn “số đề” mỗi tuần
lấy đi một dòng tiền đáng kể của những người nghèo ước mơ thành triệu phú…
Nguyễn Ngọc Chính
(Trích từ Hồi ức một đời
người)
—————————–
(1) Trần Văn Trạch (1924- 1994): ca nhạc sĩ có tên thật là Trần Quang Trạch, với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm, cộng thêm nghệ thuật biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo… ông được khán giả, báo chí trước 1975, phong tặng danh hiệu “quái kiệt”. Ông là em của giáo sư Trần Văn Khê.
(1) Trần Văn Trạch (1924- 1994): ca nhạc sĩ có tên thật là Trần Quang Trạch, với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm, cộng thêm nghệ thuật biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo… ông được khán giả, báo chí trước 1975, phong tặng danh hiệu “quái kiệt”. Ông là em của giáo sư Trần Văn Khê.
Mời xem Youtube :