Ngừng khoan dầu: Việt Nam bị Trung cộng đe dọa như thế nào?
Lực
lượng hải quân Việt Nam tuần duyên trên biển Đông. Trung cộng đưa nhiều tàu tới
khu vực gần bãi Tư Chính ở Trường Sa để đe dọa các hoạt động khoan dầu khí của
Việt Nam ở đây.
Kể từ khi có tin Việt Nam phải ngừng
khoan thăm dò dầu khí trên biển Đông do bị Trung cộng đe dọa, truyền thông Việt
Nam vẫn im lặng và Bộ Ngoại giao cũng “im
lặng một cách khác thường.”
Cho tới hết ngày 26/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa
lên tiếng về vụ việc này và thông tin về việc Việt Nam yêu cầu một công ty con
của tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol ngừng khoan thăm dò dầu khí ở lô 136-03
trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam không xuất hiện trên truyền
thông chính thống.
Nguồn tin của các chuyên gia về biển Đông, giáo sư
Carl Thayer của Học viện quốc phòng Úc và học giả Bill Hayton của viện nghiên cứu
Chatham House, cho biết Trung cộng đã đưa ra yêu cầu này thông qua đại sứ Việt
Nam ở Bắc Kinh. “Sau khi Bộ Chính trị (của
Đảng Cộng Sản Việt Nam) xem xét yêu cầu này đã quyết định ngừng khoan dầu,”
học giả và nhà báo chuyên viết về Việt Nam Hayton cho biết.
Người
dân phản đối Trung cộng trước cửa Tòa Đại sứ Trung cộng ở Hà Nội. Lời đe dọa của Trung cộng
được gửi tới Hà Nội qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh, theo nguồn tin của giáo sư
Carl Thayer và học giả Bill Hayton.
Các chuyên gia về biển Đông cho rằng lối đe dọa này của Trung cộng là chưa từng có tiền lệ khi Bắc Kinh dọa dùng vũ lực, và trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhượng bộ để có thời gian thay đổi chiến lược đối phó với Trung cộng.
Sự giằng co giữa Việt Nam và Trung cộng về vấn đề
khoan dầu trên biển Đông, theo giáo sư Alexander Vuving của Trung tâm nghiên cứu
an ninh châu Á-Thái Bình Dương, bắt đầu từ khi tướng Phạm Trường Long cắt ngắn
chuyến thăm tới Hà Nội và chương trình giao lưu quốc phòng giữa 2 nước bị hủy bỏ.
Kể từ đó, Trung cộng và Việt Nam đều huy động 1 lượng
lớn các tàu tuần duyên và tàu đánh cá tới khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank)
nằm ở phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý
về phía Đông Nam.
Hôm 23/7, một ngày trước khi bài báo của BCC và giáo
sư Carl Thayer nói về quyết định của Việt Nam ngừng khoan dầu trên biển, giáo
sư Vuving và Jonathan London đều đưa tin trên trang Twitter cá nhân về việc Trung
cộng đang triển khai dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần
bãi Tư Chính, quanh lô 163-03, là nơi Việt Nam lúc đó đang triển khai dự án
khai thác dầu Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam.
Dù Việt Nam và Trung cộng đều chưa lên tiếng xác nhận
hay phủ nhận về thông tin Trung cộng yêu cầu Việt Nam ngừng khoan dầu, người
phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung cộng hôm 26/7 được Reuters dẫn lời nói “Trung cộng thúc giục bên liên quan dừng các
hoạt động vi phạm đơn phương và có hành động thiết thực bảo vệ cho khu vực biển
mà không dễ có được.”
Phần
xây dựng của Trung cộng trên bãi đá Vành Khăng trong quần đảo Trường Sa, mà Việt
Nam cũng có tuyên bố chủ quyền, qua hình ảnh vệ tinh của CSIS đưa ra hôm 19/6.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung cộng trên biển Đông là một trong những hành
động leo thang căng thẳng trong khu vực.
Trung cộng ngày càng hung hăng
Trung cộng ngày càng hung hăng
“Sự đe dọa này của Trung cộng đối với Việt Nam cho thấy sự hung
hăng ngày càng tăng của Trung cộng,” theo giáo sư Thayer.
Cùng chung nhận định này, giáo sư Vuving nói “hành động của Trung cộng cho thấy họ tiếp tục quyết liệt với
các tuyên bố chủ quyền quá đáng của mình trên biển Đông và tự tin về khả năng bắt
nạn những nước khác cũng có tuyên bố chủ quyền (trong vùng biển này).”
Kể từ cuối những năm 2000 và đặc biệt sau 1 năm tòa
trọng tài quốc tế ra phán quyết bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung cộng, nước
này vẫn không thay đổi gì trong cách hành xử và thậm chí còn có thêm nhiều hành
động hung hăng hơn.
Vào tháng 5 vừa qua, tổng thống Phi Luật Tân Rodrigo
Duterte đã nói trước công chúng rằng chủ tịch Tập Cận Bình của Trung cộng đe dọa
“có chiến tranh” nếu Phi Luật Tân trở lại khai thác dầu và khoan thăm dò ở bãi
Recto. Vụ máy bay chiến đấu của Trung cộng áp sát máy bay do thám của hải quân
Mỹ trên biển Đông hôm 24/7 là ví dụ mới nhất cho thấy sự can thiệp của Trung cộng
vào các chuyến bay của Mỹ trên vùng trời phía đông và nam của biển Trung Hoa. Trung
cộng hiện cũng đang tiến hành các cuộc tập trận hải quân ở vùng biển Baltic với
hải quân Nga, theo truyền thông quốc tế.
Chủ
tịch Trung cộng Tập Cận Bình từng nói sẽ "có chiến tranh" nếu Phi Luật
Tân nối lại hoạt động khoan dầu trên biển Đông.
Việc tiếp tục quân sự hóa của Trung cộng trên biển Đông cũng cho thấy nước này đang coi thường phản ứng của cộng đồng quốc tế.
Những hình ảnh vệ tinh mới nhất do Trung tâm Nghiên
cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của Mỹ ở Washington đưa ra hôm 19/6 cho thấy Trung
cộng xây thêm các cơ sở quân sự mới trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa
mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Washington luôn cáo buộc Bắc Kinh quân sự hóa tuyến
hải lộ trọng yếu trong khu vực, nơi có lượng hàng hóa trị giá 5.000 tỷ USD được
giao thương hàng năm.
Thượng nghị sỹ Mỹ Cory Gardner hôm 18/7 đã lên tiếng cáo buộc Trung cộng gần đây có những hành động gây mất ổn định khu vực biển Đông
và biển Hoa Đông, làm trái với luật lệ quốc tế và tạo ra hiểm họa xung đột
trong tương lai.
Việt Nam phải làm gì?
Nếu Trung cộng thực sự đe dọa dùng vũ lực
để tấn công các thực thể của Việt Nam trên biển Đông để buộc Việt Nam ngưng
thăm dò dầu khí thì đây là một sự leo thang chưa từng có và đáng báo động, theo
ông Thayer, cũng là giáo sư của Đại
học New South Wales.
Việt Nam phải ngưng khoan dầu ở lô 136 bởi vì các lực
lượng của họ quá mỏng và không đủ khả năng để bảo vệ các hoạt động khoan thăm
dò thêm lâu hơn trước số lượng quá đông của các tàu Trung cộng, theo nhận xét của
giáo sư Vuving.
Trung
cộng gửi gần 200 tàu tới khu vực bãi Tư Chính phía tây nam Trường Sa nơi Việt
Nam khoan dầu. Lực lượng Việt Nam, với hơn 50 tàu, được cho là không có khả
năng chống đỡ, theo nhận định của tiến sỹ Alexander Vuving.
Các nguồn tin từ Việt Nam mà vị giáo sư của Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á-Thái Bình Dương có được cho biết có gần 200 tàu của Trung cộng được điều tới khu vực bãi Tư Chính trong khi Việt Nam chỉ có hơn 50 tàu ở khu vực khoan dầu này. Tuy nhiên, cũng theo nguồn tin của giáo sư Vuving, việc khoan thăm dò này cũng đã gần hoàn tất nhiệm vụ và họ đã phát hiện ra một mỏ khí có trữ lượng lớn.
Mặc dù một số chuyên gia trong nước cho rằng việc Việt
Nam hủy bỏ khoan thăm dò vì bị Trung cộng đe dọa là “hành động bất lực, hèn
nhát” nhưng các chuyên gia quốc tế lại cho rằng đây là một sự rút lui đúng lúc.
“Nếu Việt Nam
tiếp tục khoan dầu với (đối tác) Repsol vào thời điểm này thì Trung cộng sẽ đưa
các tàu tới thách thức. Họ sẽ gửi tàu thăm dò và thậm chí tàu khoan tới khu vực
mà Việt Nam đang khoan dầu. Những hành động này sẽ làm mỏng lực lượng tuần
duyên và tàu theo dõi các hoạt động đánh bắt cá của Việt Nam và lúc đó buộc Việt
Nam phải dừng các hoạt động khoan dầu để tập trung vào việc ngăn cản các hoạt động
thăm dò và khoan dầu của Trung cộng,” theo tiến sĩ Vuving.
Giáo sư Carl Thayer cũng nhận định rằng nếu Việt Nam
tiếp tục khoan dầu thì “không nghi ngờ gì Trung cộng sẽ can thiệp” hoặc bằng việc
cắt cáp tàu khoan dầu, hoặc gửi tàu đánh cá tới hoặc có các hành động quân sự
chống lại một trong các thực thể của Việt Nam trong khu vực này.
“Việt Nam luôn
dùng cả ngoại giao và hành động để đáp trả các hành động của Trung cộng. Việt Nam
không muốn hành động vội vàng trong một thế mà họ không có lợi,” theo giáo sư Thayer và ông cho rằng Việt Nam cần có thời gian để huy động những ý kiến từ quốc tế
để đưa ra một chiến lược thích hợp.
Tiến
sĩ Vuving cũng cho rằng hành động ngừng
khoan dầu của Việt Nam là “một sự rút lui
chiến lược chứ không phải là một sự đầu hàng” và Việt Nam “chắc chắn sẽ không từ bỏ các tuyên bố chủ
quyền của mình trong khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.”
Để làm được việc này, bước tiếp theo, theo giáo sư Thayer, là “Việt Nam cần tìm kiếm
sự ủng hộ của Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Úc và châu Âu đồng thời gặp gỡ các đại diện của
các công ty dầu khí nước ngoài đang hoạt động trong EEZ của Việt Nam để tham khảo
các đánh giá của họ.”
VOA
Tiếng Việt
Chuyên gia: Hợp tác tìm kiếm dầu khí giữa Phi Luật Tân và Trung cộng
sẽ khiến Việt Nam đơn độc
Ngư dân Phi Luật Tân và các nhà hoạt động
mang thuyền gỗ diễu hành đến lãnh sự quán Trung cộng ở Manila hôm 12/7/2016 để
biểu tình AFP
Hôm 24 tháng 7, Tổng thống Phi Luật Tân Rodrigo
Duterte tuyên bố chính phủ Phi Luật Tân đang thảo luận với Trung cộng về việc hợp
tác khoan tìm dầu khí ở biển Đông là khu vực tranh chấp giữa Trung cộng và một
số nước trong khu vực. Tuyên bố này ngay lập tức đặt ra một loạt các câu hỏi về
tính khả thi của dự án, và nếu trở thành sự thực thì liên doanh này sẽ ảnh hưởng
thế nào tới những nước khác trong tranh chấp biển Đông, nhất là Việt Nam, nước
cũng đang có các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ngoài biển Đông.
Tính hợp hiến
Hồi đầu năm nay, ông Duterte cũng đã lên tiếng nói về
khả năng hợp tác phát triển với Trung cộng ngoài biển Đông khi ông nói rằng
quân đội Phi Luật Tân không có khả năng đối đầu với Trung cộng ngoài biển Đông.
Tuy nhiên theo Giáo sư Renato Cruz de
Castro thuộc trường đại học De la Salle, Phi Luật Tân, tuyên bố mới của Tổng
thống Phi Luật Tân là không chắc chắn
Ông ấy không nói một cách chắc chắn điều
này sẽ xảy ra. Việc hợp tác với Trung cộng như vậy đồng
nghĩa với việc bạn chấp nhận đòi hỏi chủ quyền không tranh cãi của Trung cộng ở
biển Đông. Thêm vào đó là hoạt động này không được phép căn cứ theo hiến pháp của
chúng tôi.
Trung cộng hiện là nước đòi chủ quyền khoảng 90% diện
tích biển Đông chủ yếu qua đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này tự vẽ ra. Trung cộng
coi khu vực này là phần chủ quyền không tranh cãi của mình bất chấp phản đối từ
những nước trong tranh chấp. Các nước tham gia tranh chấp trong khu vực bao gồm
Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei và Đài Loan. Đài Loan cũng đòi chủ quyền
với khu vực nước trong đường đứt khúc 9 đoạn. Phán quyết của tòa Trọng tài Quốc
tế (PCA) hôm 12 tháng 7 năm ngoái xác định đường đứt khúc này là không hợp
pháp. Tuy nhiên Trung cộng đã lên tiếng phủ nhận phán quyết của tòa.
Mặt khác, cản trở lớn nhất trong hợp tác chung giữa Phi
Luật Tân và Trung cộng chính là tính hợp hiến của hoạt động này vì hiến pháp Phi
Luật Tân không cho phép các hoạt động khai thác chung với nước khác tại vùng nước
mà nước này đòi chủ quyền. Giáo sư Renato de Castro giải thích:
Tổng thống Phi Luật Tân sẽ phải vượt qua
chướng ngại về hiến pháp. Sẽ có người nói rằng điều ông ấy làm là vi hiến bởi
vì điều này đã xảy ra trước kia trong dự án nghiên cứu địa chấn giữa hai nước.
Cho nên câu hỏi về tính hợp hiến của dự án này sẽ được đưa ra trước tòa tối cao
Phi Luật Tân.
Hồi năm 2004, một thỏa thuận về hợp tác nghiên cứu
chung trên biển tại khu vực biển Đông giữa Phi Luật Tân và Trung cộng đã được
ký kết dưới thời của Tổng thống Gloria Arroyo. Vào năm 2005, Việt Nam cũng tham
gia vào dự án này. 3 nước ký thỏa thuận khảo sát địa chấn tại một số khu vực nhất
định ở biển Đông (gọi tắt là JMSU). Tuy nhiên hợp tác đã bị chấm dứt sau 3 năm
vì nhiều tiếng nói ở Phi Luật Tân lúc đó đã chỉ trích chính phủ của bà Arroyo
vi phạm hiến pháp khi cho phép Trung cộng vào nghiên cứu tại khu vực thuộc chủ
quyền của Phi Luật Tân.
Cây gậy và củ cà rốt của Trung
cộng
Ngay sau tuyên bố của Tổng thống Duterte, hôm 25
tháng 7, Bộ trưởng Ngoại giao Trung cộng, Vương Nghị đang ở thăm Phi Luật Tân
cũng lên tiếng ủng hộ ý tưởng này. Ông Vương Nghị còn cảnh báo rằng bất cứ hành
động đơn phương nào cũng sẽ chỉ gây ra các vấn đề và làm phương hại đến mối
quan hệ hai nước.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung cộng hôm 25
tháng 7 cũng nói với báo chí tại Bắc Kinh rằng Trung cộng có chủ quyền không
tranh cãi tại quần đảo Trường Sa và thúc giục bên thứ ba ngừng các hoạt động vi
phạm đơn phương tại khu vực này. Phát biểu này được đưa ra cho câu hỏi của
phóng viên liên quan đến thông tin hồi đầu tuần này cho biết Trung cộng đã gây
sức ép khiến Việt Nam phải ngưng hoạt động tìm kiếm dầu khí ngoài khơi Việt Nam
nơi đường đứt khúc 9 đoạn đi qua.
Tổng thống Duterte hồi tháng 5 vừa qua cũng cho biết
Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình tuyên bố chiến tranh sẽ xảy ra nếu Phi Luật
Tân xúc tiến việc khai thác dầu đơn phương ở biển Đông.
Giáo sư Castro cho rằng Tổng thống Duterte hiểu được
tình hình hiện tại và cũng biết được những cản trở mà ông ta sẽ gặp phải khi
đưa ra đề nghị hợp tác với Trung cộng nhưng ông Duterte vẫn tuyên bố như vậy vì
những hứa hẹn về đầu tư từ Trung cộng.
Đó là vì tiền của Trung cộng. 24 tỷ đô
la tiên đầu tư vào các dự án hạ tầng cơ sở đã khiến chính phủ hiện thời của Phi
Luật Tân tìm kiếm cách làm hài long Trung cộng. Trung cộng đang đưa ra cái củ
cà rốt trị giá 24 tỷ đô la cho Phi Luật Tân.
Trong chuyến thăm Trung cộng hồi tháng 10 năm ngoái
của Tổng thống Phi Luật Tân Duterte, hai nước đã ký một bản ghi nhớ về cam kết
đầu tư của Trung cộng vào Phi Luật Tân lên đến 24 tỷ đô la. Đây là một khoản đầu
tư lớn mà Phi Luật Tân cần, theo lời của giáo sư Castro, nhưng cho đến giờ vẫn
chưa có một đồng đô la nào theo bản ghi nhớ này được thực hiện.
Thách thức đối với ASEAN
và Việt Nam
Tuyên bố về hợp tác dò tìm dầu khí giữa Phi Luật Tân
và Trung cộng mặt khác cũng gây quan ngại đối với ASEAN, nhóm 10 nước Đông Nam
Á trong đó có Việt Nam. Vì vậy, hôm 26 tháng 7, Bộ trưởng Ngoại giao Phi Luật
Tân Alan Peter Cayetano cho biết nước này sẽ hỏi ý kiến ASEAN về việc hợp tác
tìm kiếm dầu ở biển Đông. Ông Cayetano nói sẽ không có hành động đơn phương và
bất cứ hành động đơn phương của bất cứ ai cũng sẽ dẫn đến gây mất ổn định. Tuy
nhiên ông Cayetano từ chối không chỉ ra cụ thể vùng thăm dò chung với Trung cộng
sẽ nằm ở đâu trên biển Đông.
Hồi tháng 5 vừa qua ASEAN và Trung cộng đã đồng ý bộ
khung bản thảo về một Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên trên biển Đông (gọi tắt
là COC). Cả Trung cộng và Phi Luật Tân đều đã lên tiếng bày tỏ mong muốn COC sẽ
được hoàn tất trong năm nay khi Phi Luật Tân là nước Chủ tịch luân phiên của
ASEAN.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Castro có nhiều khả năng
ASEAN sẽ không trả lời dứt khoát có hay không đối với thông báo của Phi Luật
Tân về vấn đề hợp tác chung với Trung cộng vì không muốn gây bất đồng trong khối
hay làm Trung cộng tức giận.
Trong các tuyên bố chung của ASEAN, khối này thường
không bao giờ chỉ đích danh Trung cộng hay lên án nước này về các hoạt động
quân sự hóa khu vực biển Đông. Nhiều khả năng điều này cũng sẽ xảy ra trong
tuyên bố chung sau thượng đỉnh ASEAN diễn ra vào tuần tới ở Phi Luật Tân.
Trước thượng đỉnh, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị
cũng đến thăm Thái Lan và Phi Luật Tân, hai nước thành viên ASEAN. Trong các
chuyến thăm này, ông Vương Nghị luôn đánh giá cao quan hệ giữa Trung cộng và
các nước liên quan, đồng thời kêu gọi ASEAN đoàn kết chống lại các lực lượng
bên ngoài, ý nói đến Hoa Kỳ.
Giáo sư Castro nhận định hợp tác chung giữa Phi Luật
Tân và Trung cộng nếu có thành hình thì có nhiều khả năng chỉ là một dạng hợp
tác tương tự như thỏa thuận JMSU như hồi năm 2004 mà thôi. Tuy nhiên, nếu hợp
tác này thành hình thì điều này cũng là một thách thức lớn với cả ASEAN và Việt
Nam. Giáo sư Castro nói "Việt Nam sẽ bị đơn độc và ASEAN sẽ tiếp tục bị chia rẽ".
RFA
Biển Đông: Làm rõ tin 'VN phải dừng khoan'
Bản
quyền hình ảnh GREG BAKER/GETTY IMAGES Image caption Bản đồ Biển Đông với
hình Đường Chín Đoạn do Trung cộng nêu ra để đòi chủ quyền toàn bộ vùng này
Việc hãng Repsol ngưng hoạt
động tại một dự án ở Biển Đông, nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng Trung cộng
cho là vùng tranh chấp, đang thu hút sự chú ý quốc tế.
BBC Tiếng Việt phỏng vấn phóng viên Bill Hayton, tác
giả bài viết VN ngừng khoan dầu khí ở Biển Đông về một số vấn
đề liên quan tới sự kiện này:
BBC Tiếng Việt: Theo
nghiên cứu của ông thì vị trí chính xác của dự án Repsol nằm ở đâu, cách bao xa
tính từ đảo chính là đảo Trường Sa?
Bill Hayton: Repsol
hiện đang có một số dự án dầu khí khác nhau tại Việt Nam. Dự án vừa phải ngưng
là nằm trong Lô 136-03, ở rìa đông nam của vùng Việt Nam tuyên bố là Đặc quyền
Kinh tế. Các bạn xem bản đồ dưới đây để biết vị trí chính xác.
Bản quyền hình ảnh OTHER
Một nguồn tin nói với tôi rằng tại khu vực lô 136-03,
người ta đã tìm được khí tự nhiên và một ít dầu, nhưng công tác khoan vẫn chưa
đạt tổng độ sâu (Total Depth). Nguồn tin này cho biết chính phủ Việt Nam đã gây
áp lực, muốn Talisman-Vietnam phải tìm lý do kỹ thuật nào đó để có cớ ngưng sớm
việc khoan tìm dầu.
Tuy nhiên, phía Talisman nói với giới chức Việt Nam
rằng giếng khoan hoàn toàn tốt, không có lý do kỹ thuật nào cản trở công việc hết.
Cuối cùng, chính phủ đã ra lệnh cho nhà thầu này phải chấm dứt hoạt động chừng
một tuần trước khi mũi khoan theo kế hoạch sẽ đạt tổng độ sâu.
Bản
quyền hình ảnh OTHER Image caption Bản đồ chi tiết các khu vực khai thác dầu
khí ở vùng biển ngoài khơi đông nam Việt Nam
BBC Tiếng Việt: Nếu
như nó nằm quanh khu vực Bãi Tư chính, thì liệu điều đó có đồng nghĩa với việc
chúng ta đang chứng kiến tình trạng căng thẳng hồi 2014, khi mà có một số nguồn
tin nói rằng các tàu thuyền Trung cộng cũng đã tiếp cận các cụm khu vực nhà
giàn do Việt Nam xây dựng ở cùng khu vực không?
Bill
Hayton: Tôi không
rõ chuyện này.
BBC Tiếng
Việt:Trong bài
viết, khi dùng cụm từ "các căn cứ của Việt Nam tại quần đảo Trường
Sa" trong câu "giới lãnh đạo Repsol được chính phủ tại Hà Nội thông
báo vào tuần trước rằng Trung cộng đã đe dọa sẽ tấn công các căn cứ của Việt
Nam tại quần đảo Trường Sa nếu không dừng việc khoan thăm dò", ông muốn
nói cụ thể tới các căn cứ nào?
Bill
Hayton: Nguồn tin của
tôi không nêu chi tiết.
BBC Tiếng
Việt: Vị
trí của lô khai thác khí đốt này nằm hoàn toàn trong vùng Đặc quyền Kinh tế của
Việt Nam? Và theo Công ước Liên Hiệp quốc thì Việt Nam có quyền khai thác
tài nguyên tại đó?
Bill
Hayton: Nếu diễn giải
theo Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp quốc UNCLOS thì đúng vậy. Những logic
mà phán quyết của Tòa trọng tài Thường trực đưa ra hồi năm ngoái cũng xác nhận
điều này, tuy nói một cách chặt chẽ thì phán quyết này chỉ có giá trị ràng buộc
đối với Trung cộng và Phi Luật Tân. Trung cộng chưa bao giờ nêu rõ cơ sở để họ
đưa ra các đòi hỏi đó. Một số người nói rằng Bắc Kinh đòi hỏi dựa trên các quyền
lịch sử ở khu vực, một số người khác nói họ tuyên bố vùng Đặc quyền Kinh tế dựa
vào quần đảo Trường Sa như một cụm khu vực. Cả hai lập luận này đều không phù hợp
với UNCLOS và cả hai đều bị Tòa Trọng tài bác bỏ.
BBC Tiếng
Việt: Một
số chuyên gia đã nêu câu hỏi về khả năng Việt Nam phải bồi thường cho đối tác dầu
khí Tây Ban Nha. Theo những gì ông biết thì liệu đây có phải là điều sẽ xảy ra
đối với trường hợp Repsol không?
Bill
Hayton: Khó để nói
nếu ta không nắm được nội dung hợp đồng ký kết giữa hai bên. Tuy nhiên, Repsol
đã chi một khoản tiền lớn cho Talisman và đã chi thêm nhiều triệu đô la vào việc
thăm dò ở Lô 136-03. Có con số ước tính đưa ra rằng Repsol và các hãng hoạt động
trước đó đã đầu tư khoảng 300 triệu đô la vào khu vực này.
Bản quyền hình ảnh OTHERImage
caption Lô 136-03 nằm ở vị trí mà cả Trung cộng và Việt Nam cùng tuyên bố chủ
quyền. Hình bên trái là bản đồ của Trung cộng tại triển lãm ở Nam Kinh gồm các
tên tiếng Trung cho gần như mọi đảo và bãi đá trong 'Đường Chín đoạn', còn bên
phải là bản đồ của PetroVietnam đưa ra trong một cuộc họp báo năm 2012
BBC Tiếng
Việt: Có
ý kiến cho rằng lịch họp của Đại hội Đảng Trung cộng có thể là một yếu tố
khiến Hải quân Trung cộng hạn chế các hoạt động tại Biển Đông nhằm tránh đối đầu
với các nước như Việt Nam. Ông có nghĩ là cái nhìn này vẫn đúng ở thời điểm hiện
tại?
Bill Hayton: Nếu
là tuần trước thì tôi cũng nghĩ vậy. Vào thời điểm này thì tôi không còn chắc nữa.
Bill Hayton ngoài công việc tại BBC News còn là nhà nghiên cứu tại Viện
Chatham House, một thinktank hàng đầu về chính trị quốc tế tại London. Ông đã
xuất bản hai cuốn sách 'The South China Sea: the struggle for power in
Asia' (2014) và 'Vietnam: rising dragon' (2010).
BBC Tiếng Việt
Biển Đông: Trung
cộng ép Việt Nam để giành nguồn dầu khí
Vị trí của các lô 118 và 136
so với đường lưỡi bò Trung cộng trên Biển Đông. Địa điểm đặt giàn khoan Hải
Dương Thạch Du 981 năm 2014 cũng được ghi chú.CSIS
Bắc
Kinh không còn che giấu ý đồ khống chế Biển Đông giành quyền khai thác nguồn dầu
khí trong vùng, và sẵn sàng đe dọa dùng võ lực để cấm các nước khác thăm dò
trong vùng biển mà Trung cộng cho là thuộc chủ quyền của họ. Theo những nguồn
tin chưa được chính thức xác nhận, thì vào thượng tuần tháng 07/2017, Bắc Kinh
đã dọa Hà Nội là sẽ tấn công các cơ sở Việt Nam ở vùng quần đảo Trường Sa nếu
Hà Nội không đình chỉ việc thăm dò vừa tiến hành tại một lô khai thác nằm trong
vùng biển sát Việt Nam nhưng bị Trung cộng nhận là của họ. Cũng theo các nguồn
tin trên thì Hà Nội đã phải lùi bước trước sức ép của Bắc Kinh.
Trong bài phân
tích đăng ngày 25/07/2017, tập san Nhật
Bản The Diplomat cho rằng sự kiện đó chứng tỏ là Bắc Kinh vẫn dùng đến những
biện pháp cưỡng chế, ép buộc để đạt mục tiêu, cho dù vẫn phô trương bề mặt hòa
hoãn.
Prashanth Parameswaran, tác giả bài viết, đã từng nêu bật cảnh giác đối với
điều mà ông gọi là “Ảo tưởng về một Biển Đông bình lặng” và
lấy ví dụ về việc Trung cộng mới đây, vào tháng 6, đã bất ngờ hủy bỏ một chương
trình giao lưu quốc phòng thường kỳ với Việt Nam vì không tán đồng một số hoạt
động dầu khí của Việt Nam tại Biển Đông. Đối với nhà báo của tờ The Diplomat, Trung
cộng đã làm như vậy nhằm gây áp lực, buộc Việt Nam phải đình chỉ việc thăm dò dầu
khí tại vùng Biển Đông mà Bắc Kinh cho là thuộc chủ quyền của họ.
Không lạ vì Trung cộng đã quen thói bắt nạt
Về sự cố mới nhất
được đài BBC tiết lộ hôm 24/07 theo đó Việt Nam đã bị buộc phải đình chỉ việc
thăm dò lô dầu khí 136-03 sau khi bị Trung cộng dọa là sẽ đánh vào các căn cứ của
Việt Nam tại vùng quần đảo Trường Sa nếu không chịu dừng, The Diplomat cho rằng,
nếu tin trên được kiểm chứng, thì điều đó không có gì đáng ngạc nhiên.
Lý do theo tờ
báo Nhật Bản, đó là vì "trong vài năm gần đây, Trung cộng đã có một
loạt hành vi dùng sức mạnh thúc ép các láng giềng để áp đặt ý muốn của Bắc Kinh
trong các vấn đề tranh chấp biển đảo. Nhật Bản đã bị Trung cộng dồn ép từ năm
2012 trong vụ tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư mà Tokyo đang quản lý; Phi
Luật Tân thì bị Trung cộng lấy mất vùng bãi cạn Scarborough cũng bắt đầu từ năm
2012. Riêng đối với Việt Nam, thì nổi bật là vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981
đến cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2014".
Theo nhận xét của
The Diplomat, cách hành xử hung hăng đó của Trung cộng không hề có dấu hiệu
thay đổi, kể cả khi Bắc Kinh ra sức tuyên truyền cho ý tưởng về một Biển Đông
yên ắng trở lại kể từ năm nay nhờ việc Bắc Kinh và ASEAN đã thỏa thuận về bộ
khung của một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông.
Trong thực tế,
theo The Diplomat, các nước Đông Nam Á đã nhận thức được rõ ba yếu tố mới có
liên quan đến Biển Đông: Các giải thích trong phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường
Trực La Haye về Biển Đông phủ nhận các yêu sách chủ quyền của Trung cộng; quan
điểm mềm mỏng hơn đối với Trung cộng trên vấn đề Biển Đông của Phi Luật Tân dưới
thời Tổng thống Rodrigo Duterte; và thái độ còn mập mờ của Hoa Kỳ thời tổng thống
Donald Trump.
Căn cứ vào ba yếu
tố đó các quốc gia Đông Nam Á đã có một loạt bước đơn phương để bảo vệ và thúc
đẩy các tuyên bố chủ quyền của mình. Trong bối cảnh đó, Bắc Kinh cũng gia tăng
các hành động nhằm chống lại những động thái này.
Việt Nam thành nước đi đầu chống Trung cộng tại Biển Đông
The Diplomat công nhận rằng trong số các động thái gần đây của các
quốc gia Đông Nam Á liên quan đến Biển Đông, từ việc Nam Dương đổi tên một phần
của Biển Đông, cho đến thông báo của một viên chức năng lượng Phi Luật Tân theo
đó nước này sẽ khoan dò trở lại tại vùng Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) từ nay đến cuối
năm, không một động thái nào táo bạo như các quyết định của Việt Nam, đã trở thành nước Đông Nam Á duy nhất đứng mũi chịu
sào chống lại các đòi hỏi của Trung cộng. Và phản ứng của Bắc Kinh đối với Việt
Nam cũng dữ dội hơn là đối với các nước Đông Nam Á khác.
Điều đáng ngại,
theo bài viết trên tờ The Diplomat, là trong những năm qua, thái độ cứng rắn của
Trung cộng lúc năng, lúc nhẹ tùy theo diễn biến của tình hình. Thái độ cứng rắn
của Bắc Kinh đối với Hà Nội hiện nay được thể hiện trong giai đoạn được chính Trung
cộng gọi là hòa dịu trở lại. Điều gì sẽ xẩy ra trong trường hợp tình hình nóng
lên?
Riêng về sự cố
liên quan đến việc Việt Nam phải tạm dừng đề án thăm dò, khai thác lô 136-06
sau khi bị Trung cộng dọa dùng võ lực, báo chí quốc tế đã có nhiều bài phân
tích cho dù tin này vẫn chưa được xác minh một cách chính thức.
Việt Nam phải cẩn thận để chính sách năng lượng không bị tác hại
Nhật báo Úc The Australian, ngày hôm qua, 25/07 đã
cho rằng sự cố đó nêu bật tính chất mong manh của tình hình yên lặng tương đối
trên Biển Đông trong một năm gần đây.
Tờ báo đã ghi nhận
là ngoại việc giao cho hãng Talisman Vietnam thuộc tập đoàn Tây Ban Nha Repsol
thăm dò lộ 136-06, Việt Nam cũng để cho tập đoàn Mỹ Exxon Mobil quyền khai thác
một khu vực nằm ở bìa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cũng như triển hạn
quyền thăm dò một lô ở Biển Đông cho tập đoàn Ấn Độ ONGC Videsh.
Việc
Việt Nam phải chiều theo sức ép của Trung cộng, nếu được xác minh, sẽ có hệ quả
tai hại đối với Hà Nội.
Tờ báo Úc trích dẫn phân tích của giáo sư Úc Carl Thayer, một chuyên gia kỳ cựu
về Biển Đông, cho rằng nếu các công ty nước ngoài bị buộc phải rút đi, điều đó
sẽ phá hoại chương trình năng lượng của Việt Nam, khiến cho Việt Nam khó mời được
công ty ngoại quốc nào khác vào đấu thầu các dự án năng lượng tương lai của
mình.
Đối với giáo sư
Thayer, việc Trung cộng đe dọa đánh Trường Sa là một bước leo thang nghiêm trọng,
và như vậy, Bắc Kinh có thể sẽ sử dụng đội tàu đánh cá của họ, đội dân quân biển
và lực lượng Hải Cảnh trước khi viện đến Hải Quân.
Theo giáo sư Thayer, việc Trung cộng đe dọa Việt Nam
cũng là một « kịch bản ác mộng » đối với giới lãnh đạo
Việt Nam, vì lẽ bất cứ cuộc tấn công nào vào một thực thể do Việt Nam kiểm soát
ở Biển Đông, đều sẽ kích động tinh thần bài Trung cộng của người dân Việt Nam.
Có điều, giáo sư Thayer cho rằng, nếu Trung cộng đánh Việt
Nam, điều đó sẽ gióng lên hồi chuông báo động khắp khu vực, và sẽ lại chia rẽ
khối nước Đông Nam Á về phương cách ứng phó. Ngoài ra, hành động đó đồng nghĩa
với việc công khai thách thức Mỹ, Nhật và các cường quốc hàng hải khác.
Trong trường hợp đó, giáo sư Thayer đặt ra câu hỏi: “Liệu
các nước đó có thực sự muốn chiến tranh với Trung cộng hay không, chỉ để bảo vệ
nền công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam, hoặc một vài mỏm đá nhỏ ở Biển Đông ? ».
Trọng
Nghĩa (RFI)
Ngư dân Việt nói gì về cảnh sát biển Nam Dương
Tàu về Courtesy Citizen
Truyền thông trong nước loan tin vào ngày chủ nhật 23
tháng 7, bốn ngư dân Việt Nam bị Cảnh sát biển Nam Dương bắn bị thương khi đang
đánh bắt trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Tuy nhiên hai ngày sau phía Nam
Dương lên tiếng bác bỏ nói rằng chỉ bắn cảnh cáo khi phát hiện một chiếc tàu
của ngư dân Việt Nam xâm phạm lãnh hải của Nam Dương.
Nhóm phóng viên RFA nói chuyện được với một ngư dân
từng mấy lần gặp lực lượng tuần duyên Nam Dương cho biết lại thực tế đối với
bản thân và những bạn đi biển khác
Bị kéo tàu, chuyện
bình thường
Ông Lê Đức Anh, ngư dân Bình Thuận, chia sẻ:
"Họ vào vùng biển của mình gặp chiếc nào là
bắt chiếc đó, tàu giã cào cũng bắt. Bắt xong là họ kéo qua vùng biển của họ và
quay phim. Quay phim xong rồi họ yêu cầu tài công theo tàu của họ chạy qua bên
đảo luôn; nhưng mình không biết đảo nào hết!”
Ông Anh cho biết thêm là trường hợp tàu cá Việt Nam bị
tàu cảnh sát biển Nam Dương nhầm hoặc cố tình kéo về vùng biển của họ, sau đó
chụp ảnh, lùa ngư dân lên tàu cảnh sát và cho chủ tàu lái tàu chạy theo họ vào
một đảo nào đó của Nam Dương, từ đó nhốt tàu là chuyện xảy ra thường xuyên. Với
ba lần bị bắt theo kiểu này, ông Anh cho rằng cảnh sát biển Nam Dương hoặc cố ý, hoặc
hiểu nhầm do trước đó có một số tàu của Việt Nam tiến sang vùng biển Nam Dương
để đánh bắt, khi thấy cảnh sát của họ thì chạy trốn về phía Việt Nam, họ tiến
thẳng sang Việt Nam và kéo bất kỳ tàu cá Việt Nam nào mà họ gặp.
Như trường hợp mới xảy ra gần đây nhất với ông Anh,
tàu của ông là một tàu giã cào và lặn các loại hải sản ở vùng nước sâu. Ông
đang đánh ở ngay vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Lúc các ngư dân đăng lặn
nghêu thì tàu cảnh sát biển Nam Dương tiến đến cặp vào tàu của ông. Đợi các ngư
dân lặn được gần đầy nghêu thì họ móc xích vào tàu, kéo thẳng về vùng biển của
họ và chụp ảnh, lập biên bản, bắt ngư dân Việt Nam ký vào đó và kéo thẳng về
nước của họ.
Tàu của ông bị nhốt ở Nam Dương gần nửa năm, trong
thời gian đó, các ngư dân được cung cấp gạo, nước mắm để sống qua ngày. Riêng
gạo, nhắc đến nó là ông muốn ê răng bởi không hiểu loại gạo gì mà sạn nhiều
không thể tưởng tượng được. Cho dù có đãi sạn trước đó rất kỹ thì khi ăn cơm,
nếu nhai không nhẹ một chút sẽ bị mẻ răng sau tiếng cốp phát ra từ miệng.
Hằng ngày, các ngư dân bị đánh thức lúc 5 giờ sáng và
chạy bộ, tập thể dục để giữ sức khỏe, tránh bệnh tật và không được uống rượu,
bia. Có một số chủ tàu Trung cộng cập bến gần chỗ tàu Việt Nam bị bắt nhốt
thường gạ các thuyền viên Việt Nam tháo trộm phụ tùng trên tàu để bán cho họ
hoặc đổi rượu, bia, thuốc lá. Và hầu hết các chủ tàu Việt Nam sau khi bị bắt,
chiếc tàu được thả ra hoặc không còn gì, phải bỏ luôn, hoặc phải bổ sung phụ
tùng, có khi lên đến hàng trăm triệu đồng mới chạy được.
Thường
thì ngư dân Việt Nam ra khơi luôn trong tình trạng cô độc bởi thiếu sự bảo vệ
của cảnh sát biển Việt Nam. Cảnh sát biển Nam Dương luôn có mặt trên vùng biển
của họ thì ngược lại cảnh sát biển Việt Nam hiếm khi có mặt trên vùng biển Việt
Nam, đó là một thực tế.
Cảnh sát biển Việt Nam
đi đâu?
Bày tỏ quan điểm về tình trạng bốn ngư dân Việt Nam
vừa bị tàu cảnh sát Nam Dương bắn, ông Anh chia sẻ thêm:
“Không có một cảnh sát biển nào của mình hết. Họ nằm
trên vùng Trường Sa chứ còn ráp ranh Mã Lai… không có ai luôn. Nhưng cảnh sát
biển của họ thì nhiều lắm, cứ mỗi tuần họ lại thay phiên: anh trực một tuần thì
anh vô, tui ra.”
Ông Anh cho rằng bản thân ông không hề ngạc nhiên khi
ngư dân Việt Nam bị cảnh sát Nam Dương bắn. Bởi việc bắn hay bắt diễn ra quá dễ
với họ. Thường thì mỗi nhóm cảnh sát trực một tuần ngoài khơi Nam Dương, hết
phiên thì có tàu khác ra trực thế và tàu kia lại vào nghỉ ngơi. Vùng biển các nước trong
khu vực luôn có tàu cảnh sát biển tuần tra mỗi ngày, riêng Việt Nam thì hiếm
khi có tàu cảnh sát biển tuần tra.
Và ông Anh cũng khẳng định thêm là chính vì việc ít
tuần tra, dẫn đến lượng xăng dầu dư thừa và một số cảnh sát biển bán xăng dầu
cho ngư dân để đổi các loại hải sản quí hiếm, tìm một chỗ nào đó kín đáo để tổ
chức ăn nhậu. Vì Cảnh sát biển Việt Nam hầu như vắng mặt trên vùng đặc quyền
kinh tế Việt Nam nên mỗi khi các ngư dân bị rượt đuổi, chỉ còn cách bỏ chạy,
nếu không chạy kịp thì bị bắt. Mà thường là bị bắt trong lúc đánh cá ngay trong
vùng biển Việt Nam, sau đó họ kéo tàu về vùng biển của họ để chụp ảnh làm bằng
chứng và bắt nhốt.
Ông Anh cho rằng đó cũng là một chiến thuật xâm chiếm vùng
biển một cách khôn khéo. Nghĩa là cứ bắt ngư dân Việt ngay tại vùng biển Việt
Nam ở các khu vực giáp ranh, sau đó tìm bằng chứng giả để nhốt, làm nhiều lần
như vậy thì ngư lùi dần vào thềm lục địa và phần biển giáp ranh giữa Việt nam
và Nam Dương sẽ lệch dần về phía Việt Nam.
Ông Anh tỏ ra bức xúc bởi nếu như có sự can thiệp cũng
như sự có mặt thường xuyên của lực lượng chấp pháp trên biển của Việt Nam thì
nhất định cảnh sát biển Nam Dương sẽ không thể lộng hành như đang có. Nhưng
nghiệt nỗi, mỗi khi có sự cố gì cho ngư dân Việt Nam thì chẳng thấy cảnh sát
biển Việt Nam nào có mặt, phía nước bạn muốn làm gì thì làm.
Như để kết câu chuyện, ông Anh khẳng định là cảnh sát
biển Việt Nam vắng mặt thường xuyên trên vùng biển Việt Nam, đặc biệt là vùng
giáp ranh Việt Nam với Nam Dương, ngược lại, cảnh sát biển Nam Dương luôn có
mặt tại vùng giáp ranh này. Và hầu hết các cuộc bắt bớ ngư dân Việt Nam đều
diễn ra trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nhưng ngư dân Việt Nam đành
chịu thua thiệt!
Nhóm Phóng Viên tường trình từ Việt Nam (RFA)