Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo
dục miền Nam và giáo dục miền Bắc
Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm.
Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc
tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy.
Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển;
muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền
Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự
tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài
bề ngoài.
Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi
lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy
ở GDMN một điểm đối chiếu.
Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam
1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay
tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại
nền giáo dục tôi đã hấp thụ.
Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện giáo dục Hà Nội từ 1975 về
trước qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.
KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH
Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội
mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó
hướng tới phục vụ.
Ngay từ những năm 1948 - 50, nền giáo dục tự phát trước tiên đã hình thành
ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ Việt Bắc, những vùng tự do
này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ, rồi tập trung và có ý
nghĩa nhất với tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành,
các trường sở… về sau.
Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển
giáo dục trong chiến tranh.
Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học được trong các nhà trường
Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được một số hiệu quả nào đó.
Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ là chỉ một hai năm. Sống
tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ kháng chiến tiếp thu được
từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động được đặt lại trong đó có
công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế. Quan niệm giáo dục chưa
hình thành cũng phải làm.
Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang
chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo
dục mới mẻ, cách mạng .
Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền giáo dục như trên thì,
ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ trước cũng đã tồn tại
ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau này chuyển giao, phát
triển trở thành giáo dục miền Nam.
Đối tượng của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá
khác nhau, còn phải nghiên cứu công phu, ý kiến của chúng tôi chỉ mới là
những phác thảo sơ bộ.
CHUẨN VÀ PHI CHUẨN
Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng chiến đã trở về Hà Nội
cái tinh thần giáo dục phi tiêu chuẩn hôm qua cần phải vượt qua, thì --
như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận -- nó lại ăn sâu vào
mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của GDMB.
Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên
thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra
đã bất thành nhân dạng.
Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng
thấy cần, vẫn cứ làm -- rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế,
để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.
Ví dụ một trường đại học trước tiên phải
có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế.
Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có
một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc
những trường tương tự… trở về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu
này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.
Trên danh nghĩa đại học VN cũng có
những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để
làm việc, chứ thực tế thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học
thuật của một trường đại học.
Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng
ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.
Tính phi chuẩn bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã
thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn
tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường
cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.
Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì mình phải bò
phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng yên.
KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM
Về bộ máy giáo dục
Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước
75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền
lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con người riêng của nó.
Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể
lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy
vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không
làm gì chỉ về mở trường trong vùng.
Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với
tỉnh, phủ, huyện -- là người do triều đình cử, chứ không phải do chính quyền
địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.
Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những người
thành thạo chuyên môn quyết định.
Còn ở miền Bắc thì hoàn toàn ngược lại.
Nhiều vị sư do địa phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào
chùa, lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ
thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.
Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.
Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.
Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.
Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.
Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.
Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.
Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai.
Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng
Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên
có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.
Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như hiện nay.
Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp quan chức
của giáo dục.
Một trong những chuyện vui vui xảy ra với nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.
Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che giấu như thế nào.
Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm
quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì
thì dân được biết cái đó.
Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô thiển. Những năm 55 – 58, tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.
Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.
Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần biết.
Những nguyên tắc căn bản của giáo dục
Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều trên báo chí, nhất
là trên mạng.
Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục mà đến nay ít được
biết tới.
Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà
giáo dục đồng thời trước đây là một quan chức trong nghề (như trên đã
nói, quan chức giáo dục ở miền Nam khác hẳn quan chức miền Bắc), ông
Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới là nhân
bản khai phóng dân tộc những nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp
VNCH 1967.
Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái thấy hai nguyên
tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích khác đi, và
nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không có một ý niệm gì
hết.
Về tính dân tộc
Ta hãy đọc lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo
đảm tính dân tộc, phát triển tinh thần quốc gia của học sinh có nghĩa
giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của
người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca
ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo
vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có
hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên
phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh
bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp
học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/
Các nhà giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn
thì khác. Trong cách giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc
trước tiên là việc dân mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự
hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây
dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang
lại. Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc
địa.
Đây là cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và
được coi là tư tưởng chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.
Một khía cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc.
Không phải là những người làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự
trấn an, người ta biện hộ rằng trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như
GDMB đang trở lại với nền giáo dục của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ
cốt phát huy tinh thần hiếu học của con người.
Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm ao ta”,
từ chối những đổi mới hiện đại.
Cũng chính là những lý do được viện dẫn khi, trong đời sống văn hóa,
người ta kéo nhau trở lại với các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín
đến một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.
Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc được các nhà GDMN hiểu là
phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.
Về tính nhân bản
Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc
phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.
Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến tình
người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.
Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền Bắc cũng công
nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có nhiệm vụ hướng
tới.
Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân đạo thường
giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân đạo cao nhất
là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.
Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta của
Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người ở các xã hội
khác không sao hiểu nổi:
--Miền Nam ta ơi
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất nhân tình
Giới giáo dục miền Bắc cũng theo sự chỉ đạo đó.
Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược hẳn. Theo
tôi hiểu , nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.
Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của
nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau
1970.
Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh Mỹ về, lập
nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.
Khi bàn về mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:
Mục đích tối thượng của giáo dục là
làm thế nào giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình,
hầu có thể sống trọn kiếp nhân sinh […] nghĩa là giúp họ thể
hiện được con người của mình trong ý nghĩa “con người là một hiện
hữu tại thế, một hữu thể có lý trí và tự do, vừa suy tư vừa hành động”.
Lê Thanh Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo dục nxb
Trẻ,1970 tr 209
Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề lên như
mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi Hà
Nội được tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954), không làm gì có
những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc về một giai cấp do đó họ
phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp của họ. Cách hiểu của
GDMN:
Chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử
dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay
phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân
bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội
đồng đều về giáo dục.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/
dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà
trong thực tế, lại làm ngược.
Trước sau, với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và
đặt vấn đề tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một
chuyện quá phiền phức, giá có công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời
không cho phép người ta tuân thủ.
Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.
Thế thì làm sao có thể tính chuyện nghiên cứu về con người cá nhân,
và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có trong họ được!
Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền Nam
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian
này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong
cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một
phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay
tổ chức nào khác.
Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/
phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê phán.
Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có tính chỉ đạo đối với GDMB trong
đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc
chiến đấu trước mắt được nhấn mạnh. Chỉ xin lưu ý một điểm, đó không phải
là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà còn là nguyên lý chỉ
đạo giáo dục ở một nước mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục nxb Trẻ đã
nói, có một phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài, cả phương Đông
lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ và Pháp
mà viết lại. Phần viết về giáo dục Nga kết lại như sau:
--Xét chung thì nền giáo dục ở Nga rất thực tiễn và khoa học, nhưng
nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành một công cụ sản
xuất [và ở VN là chiến đấu - VTN] tới mức tối đa. Một khi con người đã trở
thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó chúng ta có
thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng lại phi nhân
tính. (Sđd tr. 228)
Có thể mượn để nói về GDMB.
Về tính khai phóng
Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong các tài liệu GDMN, đối với
bọn Hà Nội chúng tôi, chữ khai phóng là hơi lạ.
Mở Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai
trí S.1975), thấy ghi khai phóng tức mở mang và
buông thả, ý nói làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ, mà trái lại, muốn
giúp đỡ cho tiến xa hơn.
Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào đó, khai phóng có vẻ gần
với khái niệm hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong
kinh tế lẫn giáo dục.
Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các nguyên tắc căn bản của
GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với khái niệm cơ bản của nhân học hiện
đại là tự do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.
Trong cuốn Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu
trên thế giới, do tổ chức Unesco bảo trợ biên soạn và
chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004),
phần viết về Thái Nguyên Bồi (1868-1940), có đoạn dẫn lại mấy ý của vị
Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới phương hướng phát
triển giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.
Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do ngôn luận và không để cho
một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình tôn giáo nào giam hãm tư
tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới những tư tưởng cao cả
mang tính nhân loại, những tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời
gian. Đó là nền giáo dục xứng đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d
tr138 )
Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và
hoàn thiện tính cách cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại. Bởi
vậy giáo dục không hể trở thành công cụ đặc biệt giúp cho những kẻ
muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà
trường phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập không bị ảnh hưởng
bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr 143).
Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một khía cạnh chủ yếu của quan
niệm nhân bản như trên đã nói.
Tinh thần khai phóng này cũng chi phối cách các nhà GDMN hiểu
khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB chấp nhận.
Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập đến rất sớm của mình.
Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng
cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ
thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội,
giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội,
làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/
là theo tinh thần khai phóng vừa nói.
Với GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính
là cần khai phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.
Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở
Sài Gòn đã nóicũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm
chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.
Hẳn là không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới
và GDMN là khai phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các
mục đích trước mắt – một tinh thần thiển cận sát mặt đất--, thì tinh thần khai
phóng mà GDMN muốn xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục đã nói, ở tr 204 tập
I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:
Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ không phải chỉ nhằm vào
sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội hiện tại mà nhằm một tình
trạng có thể tốt đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại
(sđ d tr 204).
GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.
ĐOẠN KẾT
Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục ở miền Bắc đi theo một cái
mạch phải nói là không bình thường.
Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều nước trên thế giới và trực
tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét theo cả chặng đường dài năm
sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của mình, hóa ra lại chẳng tuân
theo quy luật nào cả.
Nếu GDMN được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới
hiện đại thì GDMB lại có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.
Cần nói thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những
người làm giáo dục ở miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang
làm một cuộc cách mạng trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục
tiên tiến.
Đó là một ý nguyện chính đáng.
Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín. Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng
trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới, làm gì có chuyện hội nhập theo
đúng nghĩa của nó.
Cuộc sống trì trệ kéo dài.
Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường phổ thông
và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc
được, càng thấy trong khi khác
biệt với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại
sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh
sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được
GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.
Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề
mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính
mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy
quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất
là sang Mỹ để học. Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong
nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị
trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng
hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.
Đã đăng trên tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
số 7-8 (114-115).2014, số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM
(1954- 1975)