Tâm Tình bên Tách Cà Phê
GS.
Châu Tiến Khương
Tháng 11 năm 1978 gia đình tôi và một số thuyền nhân
đồng vượt biển trên ghe máy VT 72 tấp vào một làng Mã lai. Sau khi công nhận
chúng tôi chính là người tỵ nạn chánh trị, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR)
đưa chúng tôi vào tạm trú tại trại Cherating thuộc Kelantang (Malaysia) Thân
nhơn hay tin đứng ra bảo lãnh nên gia đình tôi được đưa sang Pháp vào đầu tháng
7 năm 1979. Do anh bạn giới thiệu, tôi vào tòng sự với tư cách nhơn viên khế ước
tại Pháp Đình Paris rồi trở thành công chức tại Toà Phá Án (Cour de Cassation)
Pháp. Được ông thẩm phán Chánh Văn phòng Chánh Nhứt Toà Phá Án ân cần giới thiệu
nên các hội thẩm đối xử với tôi rất tốt, có người coi tôi như bạn, vì hỏi ra
chúng tôi, tuy năm học có khác, nhưng cùng thầy cùng môn học.
Tuy an thân nhưng tâm trí vẫn chưa ổn định. Tôi
không quên Việt Nam, luyến nhớ nơi sanh thành, buồn với cảnh nước mất nhà tan,
bi thương với tình trạng các bạn đồng sự - đồng nghiệp thân đang bị giam lao
tù, trong “cái“ mà nhà văn Nga Alexandre Soljenitsine gọi là ''bẩy lưới sắt“ đã
sập xuống nhốt trọn 90 triệu người dân Việt vào rọ Xã Hội Chủ Nghĩa. Guồng máy
“ Vô Sản Chuyên Chính'' này do Lénine lập theo mưu lược ghi trong quyển ''Le
Prince''(Vương Tử) mà tác giả, ''lý thuyết gia'' Machiaveli ngay vào đầu thế kỷ
XVI, đã dâng bày mưu thuật tạo dựng và bảo vệ quyền lực chánh trị vào thuở Ý Đại
Lợi hãy còn trong chế độ ''phong kiến vương hầu“
Từng du học gần 10 năm tại Pháp, từng quen với sanh
hoạt Paris, dù may mắn có việc hợp khả năng, tôi vẫn tủi phận tha hương buồn với
tấm thân viễn xứ.
x
x x
Một hôm từ nhà ăn của Pháp đình Paris bước ra, tôi gặp
ông bạn, đúng hơn là ''xếp“ vì ông là Chánh án phòng (Président de chambre) thuộc
ngạch trật thẩm phán cấp cao, ông mời tôi đi uống cà phê và khi cả hai cùng ngồi
vào bàn, ông cho tôi biết ông vừa về Pháp sau một chuyến tham quan Việt Nam.
Tôi hơi khó chịu, ông hiểu ngay nên chậm rãi giải
thích:
- Ông biết
không? Nói là tham quan Việt Nam, thâm ý của tôi là tìm về Sài-Gòn để viếng
thăm khuôn viên nhỏ tại đường Catinat (Tự do) nằm giao góc với đường
Lagrandière (Gia Long). Tôi thích ngồi trên ghế đá ngắm tòa cao ốc trước mặt nhứt
là từng lầu 2 của một khu phòng có hai cửa sổ nhìn thẳng ra vườn này.
Có lẽ thấy vẻ ngơ ngác của tôi, ông tiếp tục giải
thích:
- ...... Ờ từng
lầu, chổ khu phòng ấy là nơi tôi chào đời... Vậy Nam Việt nam (Cochinchine) là
quê hương tôi, nơi tôi sanh thành và sống quãng đời niên thiếu. Đã lâu rồi tôi
nhớ Sài-gòn. Nhớ Sài-gòn tôi đâu quên được người Việt-nam mà thật lòng, tôi coi
như đồng hương. Tôi không sao quên tấm lòng người Việt đối xử với tôi trong đêm
9 tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chánh Pháp. Thuở ấy tôi lối 14 tuổi, học nội trú tại
trường Yersin Đà Lạt. Nghe súng nổ rồi biết Nhựt đảo chánh nên khi nghe tiếng
xe quân đội Nhựt chạy hướng về trường Yersin, tôi cùng một vài bạn học hoảng hốt
bỏ trường chạy tán loạn vào rừng. Tôi lạc lõng bơ vơ suốt mấy ngày, rét lạnh,
đói khát. May sao, tôi lạc vào một xóm nhỏ người Việt. Họ tiếp đãi tôi rất nồng
hậu, cho ăn, cho uống, cho tắm rừa, cho mượn quần áo để thay, rồi lại giặt phơi
quần áo cho tôi nữa. Tôi một người Pháp thất thế, đang sợ bị bắt bị giam, thế
mà họ tỉnh bơ chứa chấp tôi không tỏ vẻ lo âu gì cả... Tôi ở trong xóm nhưng biết
tin hằng ngày do họ đi chợ về thuật lại; rồi một hôm một người đàn ông cho hay
Nhựt tập trung các Pháp kiều để đưa về Sài gòn và theo ông không ai bị hành hạ
bắn giết gì cả. Họ cho tôi biết tin nhưng không hề biểu tôi đi; mấy bà còn
khuyên tôi nấn ná chờ xem. Vài hôm sau họ xác nhận sự việc và do quyết định của
tôi, họ đưa tôi về trường Yersin, để người có trách nhiệm dẫn tôi ra trình diện
với quân Nhựt. Tôi không quên được những dòng nước mắt của các bà khi tiễn tôi
đi trong lưu luyến lo âu. Phải ở trong hoàn cảnh đó mới thấu đáo tình người;
trong lòng họ tuyệt không có chút thù hận, chỉ xót thương tôi... một kẻ khốn
cùng…
Ngừng một chút để uống cạn nửa ly cà phê đã nguội và
trước khi chia tay ông nói thêm:
- Tôi biết nỗi
khổ của dân miền Nam nhứt là dân Sài gòn đồng hương của chính tôi. Tôi cũng biết
người Cộng sản không ưa dân Nam. Tôi biết họ đày đọa dân Nam, cướp đoạt đất đai
nhà cửa tài sản của dân Nam. Nhưng tôi phân biệt chế độ và nhân dân. Tôi không
ưa chế độ với bộ máy cầm quyền vô cảm nhưng tôi thương dân miền Nam, rất chân
thật và giàu tình người. Làm sao tôi trả ơn xưa với những người đã giúp đở tôi?
Chắc họ đã chết hay đã quên tôi rồi; bây giờ nhớ đến họ tôi cảm thấy bùi ngùi
và cố làm những việc có thể làm giúp dân Việt mà tôi coi như đồng hương.
À,
ông có biết cô ca sĩ Chantal Goya không? Cô ta sanh tại Sài-gòn đấy. Ngày về
Pháp cũng như bao người Pháp sanh tại Sài gòn, cô khóc nhiều. Chúng tôi rời Sài
gòn với ngậm ngùi luyến tiếc. Chúng tôi không quên được tình người và tấm lòng
dân Sài gòn. Cho đến giờ nghe đâu cứ đến đêm Trừ tịch một số người Pháp sanh tại
miền Nam Việt Nam hiện sống ở Paris vẫn thích hợp cùng nhau tại vùng ''Opera''
trang phục khăn đóng áo dài cổ truyền, đốt nến thắp nhang thành tâm khấn vái rước
ông bà theo cổ tục Việt nam, mừng ông bà về chơi với con cháu trong ba ngày Tết
….
x x x
Chúng tôi chia
tay. Ông bạn đi rồi. Tôi vẫn thừ người nghĩ đến việc bỏ xứ ra đi, sống đời tỵ nạn,
bồi hồi nhớ Làng nhớ Nứớc. Những lời tha thiết của ông khiến tôi xúc động.
Đảng Cộng sản Việt
Nam thường hãnh diện tự cho đã “cướp“ quyền bằng bạo lực cách mạng noi theo học
thuyết và chính sách “Staline - Mao trạch Đông” để, nhơn danh Đảng, xây dựng
chuyên chính nắm độc quyền chánh trị, dùng quyền lực chỉ huy kinh tế qua sự
hình thành hệ thống kế hoạch ngược hẳn khuynh hướng thị trường tự do... Hậu quả
tất yếu là mở rộng cửa cho các đảng viên có quyền chức tham ô, kết “băng”, lập
“nhóm” tranh nhau nhũng lạm và cứ thế mỗi lúc mỗi lây lan ra khắp xứ. Họ làm giàu cực
to, cực nhanh trong khi nhân dân vì sanh sống phải xa lần phong cách đạo đức
văn hoá cổ truyền. Phải lo cho bản thân cho gia đình nên dân phải tranh sống bằng
mánh mung, làm quen với mua chuộc, hối lộ để trở thành con người “thực tế” của
Xã hội chủ nghĩa sử dụng thành thạo “luật chơi” sinh hoạt ''thức thời'' theo
phương châm “Nhứt ngân Nhì thế...” Thế
là, chánh trị tham ô áp bức, kinh tế lũng đoạn, suy đồi, văn hoá thoái hoá suy
vy, con người sa lún vào hố sâu trụy lạc, bung tỏa… sống buông thả qua ngày
không còn ý chí tự lập thân, không còn gì để hãnh diện tự trọng, cũng không còn
nghĩa đồng bào tình dân tộc khi mà kẻ cầm quyền ngổi trên đỉnh cao của Thế Lực
chỉ nghĩ đến chiếm đất đoạt nhà cướp của, miệng nói vì dân nhưng hành động vì bản
thân và gia đình. Mở miệng nói vì Đảng vì giai cấp nhưng thừa biết Đảng chỉ là
phạm trù, một pháp nhơn, một kỷ thuật văn phong pháp lý được một số ít người
nép mình, núp bóng trong thể loại từ ngữ trừu tượng “hư hư ảo ảo” ấy bao che
quyền lực tập thể toàn trị. Nói là vì tập thể nhưng thực tế họ phân chia từng
“nhóm quyền lực'', đấu đá nhau, tranh chức vụ chánh trị, chia quyền lực kinh tế,
giành lợi ích tiền tài ….. không ngần ngại cậy nhờ thế lực ngoại bang, cường quốc
chủ nhơn, quan thầy quốc tế… khép nép thần phục để được bảo trợ... nắm vững và
củng cố quyền hành.
Có hay không việc
Lê Duẩn xác nhận “Ta đánh Mỹ là đánh cho
Trung quốc cho Liên Xô”?
Quen với cuộc sống
tự do người Việt miền Nam đủ mọi thành phần, mọi giới, mọi sắc tộc, mọi bộ lạc
không thể hay chưa thể vong thân vào những tập đoàn chánh trị phi nhơn, kiếm
tìm phương cách thoát vòng kìm tỏa, xa lánh chế độ “độc đoán trị vì'', tìm đường
sang xứ tự do dù phải trả giá bằng những “cây vàng”, lắm khi đắt hơn, bằng tù
đày hay chết thảm trong rừng núi hoang vu, trên biển cả cuồng phong bão tố.
Gia đình tôi
cũng theo chân dân Việt yêu tự do, mạo hiểm vượt biển và nhờ Ơn Trên thực hiện
đưọc ước mơ sống lại đời tự-do ở Pháp, lần hồi tạo dựng cơ ngơi vì “có chi quý
hơn được làm người tự do trong xã hội pháp trị dân chủ''?
x x x
Tôi không quên
được nơi sanh thành, nơi giòng họ tôi đã hơn ba đời gắn bó. Thuở bé, cô tôi,
Châu thị Phấn, thường bảo tôi hát câu nằm lòng: ''Xứ Nam kỳ tỉnh Gia định quận
Gò vấp tổng Bình trị Thượng làng An nhơn xã ấp Trung Nhứt xóm Bến đình''. Sống đời lưu vong,
cũng như mọi người Việt khác, tôi nhớ làng nhớ quê, nơi tôi từng sống hồn nhiên
thoải mái trong tình người. Tuy đất nước thuở ấy có bị Thực dân quản
chế thống trị nhưng dân quê lại được sống trong cảnh thanh bình an lạc.
Thuở ấy, làng
tôi có chế độ gì? Tôi chả biết. Tôi chỉ luôn gặp và giao tiếp với “người” cùng
làng. Ông già bà cả ăn mặc sang trọng, hay nghèo hèn, quần đen áo vải, tôi
không phân biệt. Người nào là nông dân thợ nhuộm, buôn gánh bán rong... tôi chẳng
lưu tâm. Trẻ nít chúng tôi thường quần cụt, áo thun ba lỗ, tụ hợp quây quần
nhau, nay chỗ nầy mai chỗ khác tùy theo trò chơi mà cả bọn bày ra tùy hứng.
Một hôm bọn
chúng tôi đi chơi gặp một ông ''làm làng“. Ông ta căn dặn:
- Đi chơi coi chừng lùm cây ở ngã ba xuống ''Bến
Đình'' có ổ rắn lớn lắm!
Khi ông đi cách
một khoảng xa, một thằng trong bọn nói nhỏ:
- Ông làng này có cây súng!
Cả bọn nhao nhao
lên:
- Sao mầy biết?
- Hôm trước tao đi với ba tao gặp ổng mang
súng trên vai, tao hỏi ''ông Hương Quản đi tuần à?” ổng “ừ”
Lần lần tôi ý thức
làng tôi có hương chức hội tề. Họ đều là dân làng nên ai cũng biết ai. Ngoài chức
vụ ''làm làng'' - một trách vụ không lương - họ có cơ sở làm ăn sanh sống như mọi
người dân, có khác chăng là họ biết đọc biết viết. Họ là ''trí thức'' trong
làng. Không nghe ai nói họ dùng chức vụ để nhũng lạm làm giàu thị uy hiếp đáp
dân lành. Người lớn gặp nhau cùng chào hỏi. Bọn trẻ nít chúng tôi khỏi phải
khoanh tay cúi đầu chỉ lễ phép nép bên nhường đường cho mấy “ổng”. Làng không
có cảnh sát nhưng rất an bình, ai lo phận nấy. Rủi có biến cố hay tai nạn bất
thường như trộm cướp, nhà cháy, đánh lộn té sông, ngả bệnh bất ngờ... chỉ cần
to tiếng kêu la cầu cứu “làng xóm ơi!" là cả làng náo động, dù lúc đó là
đêm khuya đi nữa, người người cũng đốt đuốc chạy tới ân cần can thiệp giúp đỡ.
Nếu biến cố là “băng đảng ăn cướp” trang bị khí giới thì “nhà làng“ nổi trống
liên hồi, cả làng hợp nhau lại, trai trẻ có võ nghệ, người có súng (dù là súng
bắn chim săn chồn thỏ...) đều đem ra sử dụng thị uy, tụ hợp tùy cơ can thiệp...
nhưng thông thường khi trống đánh liên thinh đám đông hợp lại đèn đuốc sáng
choang, cướp tự động rút lui, phân tán tháo chạy.
Trật tự trong làng xuất phát từ tương thân
tương kính, bắt nguồn từ tự giác theo phương cách xử thế liên đới của người
trong thôn xóm. Kẻ làm điều sai quấy thường tự cô lập không dám ra đường ra chợ
gặp ai, lắm khi tự động bỏ làng ra đi. Phải chăng đó là cách xử thế tự trọng, tự
xử trong quan hệ ‘‘Nhân Trị’’ do ý thức tự giác đương nhiên của dân? Phải chăng
đó là tình liên đới của dân Việt, đặc biệt của thế hệ cha ông đã, từng đàn, từng
nhóm, kéo nhau vào Nam cùng khai hoang, khẩn đất, phá rừng cày bừa nơi ao vũng,
nước đọng sình lầy. Phải trú ngụ nơi chốn lạ quê người, hoang vắng “khỉ ho cò
gáy“ “chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh”, nên sớm biết cần phải đoàn kết khi
hoạn nạn, giúp đỡ nhau lúc khốn cùng, vì những vùng lầy lội dẩy đầy sương lam
chướng khí, cọp beo, trăn rắn, nếu không cùng nhau trợ lực thể chất tinh thần
khó có thể an cư lạc nghiệp.
x x x
Làng tôi thuộc xứ
Nam kỳ.
Nam Kỳ là lãnh thổ mà bao lớp người ''Việt" đã
hơn ba trăm năm trời bỏ công khẩn hoang khai thác để rồi qua những biến thiên lịch
sử ráp nối lần hồi với Bắc Kỳ hình thành nước Việt Nam ngày nay. Sống và lớn
lên trong làng với rất nhiều bạn bè cùng lứa tuổi chúng tôi gặp nhau hằng ngày,
cùng nô đùa, chạy nhảy, gây gổ, đập lộn nhau. Học cùng trường, chúng tôi cùng
đi hớt cá lia thia dưới triền, bắt dế ở những ruộng chạy dài dọc theo “ngôi mộ
cổ” hoặc tắm sông ở bến “Đình” hay bến "Đồng Miên".
Quê tôi, như tên nó (An Nhơn), rất hiền hòa. Xóm
làng thân thiết, dân tình chất phác. Đó là một xã hội nho nhỏ mộc mạc, với một
số dân cư chân chất, rất chân thành trong tình thương, nơi có khung cảnh thiên
nhiên, ruộng lúa bờ đê, con sông lặng lẽ, bến vắng êm đềm, đường tre kẽo kẹt,
vài ngọn xoài ngả bóng ở đầu làng, tiếng chim chíu chít trong tàn cây rậm lá,
thấp thoáng cánh cò bay lượn trên ruộng lúa, mạ mướt xanh tươi.
Tôi yêu làng tôi bằng một thứ “Tình Cảm Tự Nhiên”,
và dù ngày nay, ngàn trùng xa cách, tôi vẫn thương, vẩn nhớ. Cái tình ấy như có
ma lực khiến tôi không thể quên, dù làng tôi từ năm 1945 về sau là bãi chiến
trường giữa quân đội Pháp đóng tại Gò Vấp và lực lượng giải phóng quân có mật
khu tại An Phú Đông. Làng tôi tan nát với bao lần đụng độ giữa lực lượng quân sự
đôi bên. Những thanh niên, bạn cũ của tôi, quay cuồng trong cơn lốc chiến
tranh, nửa theo bên này, nửa theo bên kia, trực chiến với nhau, tàn sát nhau đến
độ chết gần hết, thi hài trôi sông, hay vùi sâu dưới lớp bùn, bờ sông bãi sậy.
Ngày nay, làng tôi mất tên hành chánh. Sát nhập vào
thành phố, làng trở thành một phường của quận Gò Vấp, dân làng hầu hết đã bỏ ra
đi hay bán đất bán nhà rút về sống ở vùng hẻo lánh; dân cố cựu không còn bao
nhiêu người. Xã hội ngày xưa đã mất, khung cảnh ngày xưa biến cải. Trước xu hướng
đô thị hoá, làng đã biến thành khu xây cất hỗn loạn ngổn ngang. Lớp người mới,
từ đâu đến đây sanh sống trong khi dân làng cũ, lớp chết, lớp tản cư, để rồi
không về nữa.
Hình ảnh làng xưa, chỉ còn lưu lại trong trí nhớ của
một số người và chắc chắn sẽ vĩnh viễn mất đi khi lớp người nầy không còn trên
đời.
x
x x
Làng tôi với môi sinh và dân tình biến đổi vẫn còn
trong Đất Nước tôi. Đất nước là gì? Tại
sao tôi cũng yêu Đất Nước như tôi yêu làng tôi? Đó là một mảnh đất chạy dài
trên bán đảo Đông Dương, nằm giữa biển Đông và dãy núi Hoành Sơn. Biển bao la,
núi chớn chở, rừng thâm u, nhiều con sông lớn nhỏ chằng chịt liên tiếp cung cấp
phù sa, chất sống cho đồng cỏ, ruộng lúa; Việt nam có hai đồng bằng phì nhiêu
cung cấp lương thực cho toàn dân: đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc và đồng bằng
sông Cửu Long trong Nam.
Tôi chỉ có một ý niệm đơn sơ như thế về Đất nước. Thật
sự tôi chưa biết dãy Hoành Sơn, sông Hồng, Việt Bắc, đường biên giới chập chùng
với ngọn Hoàng liên Sơn cao ngất. Tôi chưa hề đặt chân trên đất Hà Nội, chưa thấy
Trung du và Thượng du miền Bắc, chưa ngắm vịnh Hạ Long, chưa trầm mình trên bãi
biển Đồ Sơn, Sầm Sơn... Nhưng sao trước
đây và bây giờ tôi vẫn hãnh diện tự nhận là người Việt Nam, khi phần lớn
lãnh thổ trong xứ hãy còn xa lạ với tôi. Tôi chưa uống nước sông Lô, chưa ăn gạo
Nam Định, chưa có kỷ niệm đậm đà về những vùng gọi là cái nôi của dân tộc. Vậy
mà tôi vẫn yêu Việt Nam, như yêu làng An Nhơn của tôi.
Tại sao vậy? Chưa biết mà đã yêu, và vì yêu mà từ bầu trời xa lạ vẫn
vọng về cố quốc để nhớ thương! Nếu tôi yêu làng tôi bằng "tình cảm tự
nhiên", tôi yêu tổ quốc do "tri thức".
Tình yêu tổ quốc đến với tôi qua giáo dục. Nhờ có đi
học tôi mới biết sự hình thành đất nước công nghiệp tiền nhân qua mấy ngàn năm
lịch sử. Những truyền thuyết giai thoại thần kỳ... khiến tôi cảm nhận hồn
thiêng đất nước. Những mẫu chuyện hoang đường dã sử qua những bài học ở trường
gợi khơi mạch máu Lac Hồng.Tôi cám ơn "tiền nhân" những người tiên
phong đến mảnh đất này đem tài năng trí tuệ mồ hôi nước mắt xây dựng, đem máu
đào xương trắng chống ngoại xâm gìn gìữ để.... trao lại cho chúng tôi giang sơn
gấm vóc nầy.
Nghĩ
đến là xúc động. Tôi thấy yêu đất nước yêu nòi giống.
Có cái gì linh thiêng bí ẩn gắn liền tôi vào tổ quốc vào đồng bào vào nhân dân
đủ mọi sắc tộc, mọi bộ lạc trải qua bao biến thiên lắm khi đẫm máu nhưng cuối
cùng chấp nhận sống chung nhau trên đất nước này.
Nhưng
quá yêu thường khi phải khổ! Non sông dù có hùng vỹ
mỹ lệ đến đâu cũng vô nghĩa nếu chỉ có cảnh trí thiên nhiên mà không có con người
đã và đang sống trên đó chăm lo canh tác từ chòm cây bụi cỏ, gắn bó mật thiết với
thiên nhiên bồi đấp cho thiên nhiên. Nhân dân và Thiên nhiên nương tựa vào nhau
tác động qua lại với nhau… để rồi, qua nhiều thế hệ hình thành TỔ QUỐC. Tổ quốc có NƠI,
nơi mà Tổ quốc có HỒN.
Nhân dân sanh và sống trong lòng đất nước tất nhiên
yêu tổ quốc. Nhân dân là số đông, hàng chục triệu người, mỗi người là một
"thực thể sống" có suy tư riêng, tình cảm riêng, khả năng riêng, tài
trí riêng... nhưng, qua cuộc sống chung nhiều đời, tất ý thức tình liên đới
nghĩa đệ huynh; mỗi cá nhân có quyển lợi riêng nhưng toàn dân có quyền lợi
chung. Tổ Quốc là tối thượng. Để bảo vệ Tổ quốc người dân chẳng nề hà hy sinh
tài sản tánh mạng. Lịch sử đã từng lưu lại biết bao hy sanh biết bao nghĩa cử.
Những gì mà lịch sử vô tình hay cố ý bỏ sót nhân dân
lại nhớ và bổ sung bằng truyền thuyết giai thoại hư hư thực thực, liên tục truyền
lại cho người đời lớp nầy sang lớp khác, lưu giữ những bóng mờ của anh hùng tử
sĩ vô danh, những vóc dáng anh thư tiết nghĩa hay những nạn nhân chết thảm
trong oan ức. Khó phân biệt "chánh", "tà" vì lắm khi dã sử
rõ nét hơn chánh sử. Dã sử là công trình của nhân dân "trăm tai ngàn mắt"
gom góp sự việc mắt thấy tai nghe trong khi chánh sử lắm khi do nịnh thần
"a dua" tận dụng kiến thức tài năng chọn lọc sắp xếp sự việc ghi chép
ca ngợi kẻ thành công trong sự nghiệp Bá Vương.... dù kẻ ấy đã sử dụng mưu thâm
chước độc, gian manh xảo trá, ngược xuôi phỉnh gạt, nói một đường làm một nẻo,
dụng ý tô điểm hoành tráng, biến "ác quỷ" thành "thánh
nhơn", kẻ gian hùng ném đá giấu tay thành anh hùng hào kiệt chánh khí đằng
đằng... dù trên tay kẻ ấy còn tanh mùi
máu dân oan, mái tóc còn vương hồn phách bao nạn nhân uổng tử..., dù kẻ ấy đã từng
lợi dụng tình yêu tổ quốc của dân đẩy dân ra chiến trường, kích thích tinh thần
“vị quốc vong thân" "trung nước hiếu dân'' bốc cao nghĩa khí vì
"độc lập đất nước" vì "tự do nhân dân” nhưng tự thâm tâm là cướp
và xây dựng quyền bính cho mình và để giữ vững quyền đó sẵn sàng nhượng bán xứ
cho ngoại bang miễn sao, ích lợi, quyền lực luôn nằm trong tay mình.
Có chi thiêng liêng bằng “hy sinh cho đất nước”? Có
gì quý hơn được làm dân tự do trong quốc gia độc lập? Bao lớp người vì đại
nghĩa, chiến đấu ngoan cường chấp nhận hy sinh sanh mạng không hối tiếc. Họ đã
hy sinh, chết vùi thây nơi núi cao rừng rậm, bên bờ sông bãi sậy dưới sình lầy.
1.
Họ chết cho Độc lập Đất Nước? Chết
mà vẫn nghĩ đã hy sinh thân thế cho Tổ quốc, đâu ngờ lãnh đạo tối cao lại nhập
nhòa khẳng định "Yêu Tổ Quốc là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa" và Tổng bí thư
Lê Duẩn thẳng thừng tuyên bố ''Ta đánh Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu"!
Đã chết họ đâu biết khi chiến tranh
chấm dứt:
a.- Nga đòi nợ! Lãnh đạo Miền Bắc
truất một phần 16 tấn vàng cướp của nhân dân Miền Nam để trả nợ và mong được
Liên xô chịu coi như nợ đã dứt khi liên tục gởi sang Nga 500.000 công nhơn Việt
nam lao động trong mấy năm dài với đồng lương rẻ mạt mà còn bị truất phần trả nợ
chiến tranh cho đồng chí Liên xô.
b. -Tàu đòi nợ! Thủ tướng Phạm văn
Đồng ký công hàm nhượng lãnh hải trong hải phận, chuyển nhượng đó có quần đảo
Hoảng Sa. Trung Cộng lại nhơn đà tiến chiếm luôn một số đảo trong quần đảo Trường
Sa lấy các đảo này nới rộng hải phận bằng đường "lưởi bò" tự coi,
trong thực tại, như là chủ nhơn Biển Đông. Tàu lại áp lực đòi duyệt xét cắm cột
móc lại vùng biên giới Việt Trung. Việt Nam mất ải Nam Quan, suối Bản Giốc, đỉnh
Lão Sơn và bao nhiêu cây số vuông núi rừng hiểm trở đã từng là thành lũy thiên
nhiên nhờ đó mà ngày xưa dân quân tổ tiên ta đã ngăn chận được giặc phương Bắc
luôn hướng mắt nhìn đất nước ta muốn cưỡng đoạt làm của họ. Lãnh đạo Nguyễn văn
Linh, Đổ Mười, Phặm văn Đồng đã ký những cam kết gì tại Thành Đô đến nay vẫn
chưa công bố, khiến có dư luận trong nước và ngay cả bên Tàu, đồn đãi loan truyền
đến năm 2020 Việt Nam sẽ sát nhập vào Trung Quốc để trở thành một vùng ''Tự Trị
'' trực thuộc hành chánh tỉnh Quâng Tây? Tại sao Dương Kiết Trì vừa đến Hà Nội
đã lấy giọng kẻ cả khuyên "con hoang hảy trở về Nước Mẹ''?
2. Họ chết cho Tự do Nhân dân? Hy
sinh nơi chiến trận họ ngỡ chết để cho nhân dân được tự do vì cả tin vào tuyên
ngôn Độc lập mà Hồ chí Minh, tại Ba Đình, ngày 2 tháng 9 năm 1945, đã long trọng
nhắc đến quyền Tự do trong Hiến Pháp Mỹ, cơ bản là ai ai cũng có "quyền mưu
cầu hạnh phúc "
Họ có ngờ dâu khi Việt Nam vừa độc
lập, lãnh thổ chưa kịp thống nhứt chánh quyền Cộng Sản đã nhứt quyết theo học
thuyết "Staline Mao trạch Đông" xây dựng vô sản chuyên chính, khước từ
"tự do nhân quyền." Từ khi chuyên chính với chủ trương dù là thực thể
sống, cá nhân phải vong thân vào "phạm trù tập thể" họ làm như không
biết phạm trù chỉ là ''thuật ngữ'' được tạo bởi lý trí và dùng để chỉ đám đông,
nhóm đông, số đông, tập đoàn.... rồi đem "thực thể nhơn sinh" tha hoá
vào "từ ngữ hư ảo" để núp ẩn trong cái "hư ảo" đó, hiếp đáp
khuất phục cái ''Có" cái "Thực"; đề cao tập thể, tha hóa cá
nhân, thống trị con người. Họ vịn vào lập thuyết chủ trương ''Nhân dân là tập
thể ", ''giai cấp là tập thể "...và vì là tập thể được tự do thao
túng qua chỉ đạo của Đảng (cũng là tập thể) coi xứ sở như tài sản của Đảng. Họ
có độc quyền chuyên chế, nhơn danh Đảng, lãnh đạo nhơn dân, lãnh đạo giai cấp
lao động tiền phong mà họ thuộc giai tầng ưu tú (?) vừa làm luật, vừa chấp hành
luật, vừa xử lý luật. Đảng là tập thể chỉ huy dân; dân từng người chỉ là một cá
nhân chỉ được tự do đi trong "lề phải" quy định bởi Đảng. Bầu cử phải
theo thể thức dân bầu người Đảng chọn, cho ghi tên vào danh sách do Đảng lập và
giới thiệu. Cách bầu cử đó lại được thuyết gia Cộng sản xưng tụng như triệu lần
hơn tự do dân chủ Tư bản!? Nắm toàn quyền chánh trị, Tổng Bí Thư là "Hoàng
Đế". Bộ Chánh Trị là "Cơ Mật Viện" triều đình. Trong guồng máy vận
hành như vậy làm gì có tư do cho con người cho cá nhân? Chế độ xây dựng trên
nguyên lý khắc nghiệt triệu lần hơn "Đế quyền Phong kiến" tiêu biểu
là "triều đại Tần Thủy Hoàng" ông vua ác ôn từng diệt trí thức
"đốt sách chôn sống học trò."
Đài BBC có trích đoạn Tổng bí thơ Nguyễn văn Linh
thân mật bảo các quân nhân làm báo rằng ''Tụi
bây nằm trong tay tao, tao mở tay tụi bây sống tao siết lại tụi bây chết."
Lời nói này (nếu có) phản ảnh tâm tư và hành động ác nghiệt hơn cả Tần thủy
Hoàng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn đến Hiệp Định Genève
làm nổi bật vai trò của Trung Cộng.
Ai cũng biết trong chiến thắng đó, Hồ
Chí Minh "cung cấp người", Mao trạch Đông cung cấp "vũ khí"
trang bị, "tướng Tàu"
trong đó có Trần Canh đảm nhiệm chỉ huy chiến trường, áp dụng chiến thuật biển
người mà Mao yêu thích... để dứt điểm kháng cự của tướng Pháp De Castries.
Sau đó, qua Châu Ân Lai, Trung Quốc tham dự Hội Đàm Genève giải toả bế tắc bằng
đề nghị chia đôi nước Việt Nam ở vỹ tuyến 17.
Từ đó mọi quyết định quan trọng của
Việt cộng miền Bắc tất phải có ý kiến Trung Cộng. Bà Dương thu Hương từng nghĩ
rằng Hồ chí Minh đã trở thành "tay sai" luôn theo chỉ đạo của Mao
trach Đông "vĩ đại" trong công tác xây dựng chế độ kinh tế ''Bao Cấp”
và phương cách "Cải Cách Ruộng Đất.'' Vi vậy khi nhận lãnh nhiệm vụ cải tổ
kinh tế miền Bắc, Đỗ Mười rập khuôn đường lối Tàu, phá nát kinh tế thị trường bằng
quốc hữu hoá công kỹ nghệ, cướp cơ sở tiểu thương gom vào "hợp tác xã
" ban hành chế độ tem phiếu trong ý đồ sản xuất để tiêu thụ, giảm thiểu
vai trò tiền tệ; đề cao lao động sản xuất của cải vật chất coi lao động dich vụ
là ăn bám, đày thưong nhân lên miền hoang du học tập lao động sản xuất của cải
vật chất...
Sau này khi cưỡng chiếm miền Nam, vào năm 1975, cũng
Đỗ Mười được đưa vào cải tổ kinh tế. Dưới sự chỉ đạo của ông ta, nền sản xuất
đang sung túc miền Nam trở nên thê thảm. Dân Sài gòn ăn bo bo khi mà tiềm lực sản
xuất lúa gạo miền Nam đủ sức nuôi dân và xuất khẩu ra ngoài. Sự thất bại hiển
nhiên lại tạo hậu quả bất ngờ là... ông được nâng lên cương vị Tổng bí Thư. Phải
chăng đường lối của ông chính là đường lối học thuyết Xít-Mao? Phải chăng với sự phá nát kinh tế miền Nam
ông đã tạo cơ hội cho giai tầng lãnh đạo trở nên giàu có nhờ chuyển chiến lợi
phảm về cho họ như vàng bạc quý kim cũa cải đủ loại từ máy móc xe hơi bàn ghế tủ
lạnh đến máy lạnh truyền hình truyền thanh.... để từ đó gia đình họ có vốn đầu
tư? Thế lực tư bản hợp với thế lực chánh trị giúp họ thao túng thị trường và
trong cái xứ gọi là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã có mầm móng để hình
thành một giai cấp mới… giai cấp TƯ BẢN ĐỎ khi kinh tế Việt nam chuyển mình
"ĐỔI MỚI?"
Dưới sự chỉ đạo và giám sát của các quan thầy Trung
Quốc, "tai mắt" của Mao trạch Đông, Trường Chinh, lãnh vai trò
"Cải Cách Ruộng Đất", đã "phóng tay" tàn sát địa chủ: gần
ba trăm ngàn người bị đem ra đấu tố hành quyết trong đó có chính cha của Trường
Chinh. Ông ta nghĩ sao khi Hồ chí Minh "sụt sùi "khóc trước nhân dân
cho rằng cuộc Cải Cách Ruộng Đất quá tàn bạo đã diễn ra trong lúc ông ta vắng mặt.
Ông ta xin lỗi nhơn dân và cách chức Trường Chinh. Ông Trần Đỉnh trong quyển
''Đèn Cù'' tiết lộ đó là cách "chạy tội gian manh động trời" của cha
già dân tộc vì chính ông Hồ dưới bút danh C.B. (để được hiểu bài viết là Của
Bác) tố cáo "Địa chủ ác ghê" và đã cải trang làm một cụ già âm thầm đến
dự cuộc "đấu tố" bà Cát Long Nguyễn thị Năm, một phụ nữ yêu nước từng
nuôi ăn ở các đảng viên Cộng sản cấp cao. Phải chăng để tưởng thưởng sự
"nín khe" của Trường Chinh nhằm bao che ''Bác" nên ông ta được
"cụ Hồ" phục chức mau lẹ?
Hồ chí Minh từng thú thật không có tư tưởng gì khác
hơn học thuyết Marx-Lénine và đường lối cách mạng của ông rập theo đúng chính
sách Staline-Mao trạch Đông. Là tín đồ Cộng sản thuần thành tất ông tin vào "Thế giới
Đại Đồng"; đã phá bỏ ranh giới quốc gia... thì làm gì còn có tổ quốc Việt
nam? Con đường tất yếu đi đến cứu cánh Cộng sản Thế giới là "Vô sản chuyên
chính" mà đã "chuyên chính" thì đâu thể có" Tự do cho
dân" đâu thể có "Nhơn quyền cho người"? Những thanh niên tử sĩ
hy sinh vì độc lập của đất nước vì tự do của nhân dân đã thực sự chết cho một
mưu đồ rất độc thâm nhưng cũng rất tinh vi.
x
x x
Ông bạn đồng hương người Pháp còn giữ trong tâm chút
tình người muôn thuở. Sau mấy mươi năm sống trong lòng tồ quốc của chính mình,
ông vẫn còn nhớ xứ Nam kỳ, thành phố Sài gòn, con đường Catinat... nơi ông sanh
thành và sống quãng đởi niên thiếu. Ông lại có cơ hội biết “tình người” của
thôn dân miền Nam rất hồn nhiên trong thương cảm, đã mở vòng tay đón rước che
chở ông trong hoàn cảnh khốn cùng, không hề phân biệt bạn thù, địch ta. Tôi cảm
ơn ông còn nhớ miền Nam Việt và cảm thông mối u tình của ông khi ý thức rằng sẽ
không còn có dịp bắt tay cám ơn các người Việt đã từng giúp đỡ ông và nỗi buồn
của ông khi nghĩ rằng họ đã chết hay đang lạc lõng ở chân trời góc biển nào.
Dù sao nỗi buồn của ông cũng chỉ bâng khuâng man mác
thôi. Ông vẫn sống tự do trong lòng đất nước mà ông đã tận tâm phục vụ. Tổ quốc
ông đã thầm lặng cám ơn ông và tôi nghĩ ông cũng đả lặng lẽ cảm nhận như thế!
Tôi tin ông đã nằm lòng lời nói của quá cố J.Kennedy cựu Tổng thống Mỹ "Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải tự
hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc"
Ông bạn Pháp đồng hương ơi !Năm nay chúng ta cùng xấp
xỉ chín mươi tuổi đời. Cũng như tôi ông đã hưu và đã từ lâu vui với cảnh
"Vườn xưa khép cổng thảnh thơi hưởng nhàn." Thú thiệt với ông tôi vẫn còn đau lòng với bao trăn trở. Nỗi buồn của
tôi sâu đậm lắm! Ông còn nơi sanh thành để sống đời an lành nhàn nhã. Nhớ Sài
gòn ông còn có thể về đó, đến đường Catinat, ngồi trên ghế đá tại vườn xưa nhìn
căn phòng nơi ông chào đời. Ông thử đặt mình vào hoàn cảnh tôi, kẻ đã mất nơi
sanh thành dưỡng dục: làng tôi đã mất tên. Cánh đồng hoang, thửa ruộng vắng,
ngày nay đã trở thành nơi xây cất ngổn ngang hỗn độn, bến sông bờ rạch bị lấp bằng,
người cố cựu thưa thớt tản mát trong số hàng chục ngàn dân tứ xứ đến đây lập
nghiệp. Tôi
không còn làng để về thăm và chắc chắn tôi sẽ là người xa lạ, lạ cảnh lạ người
trên vùng đất mà cha ông đã hơn ba đời sanh sống. Đó là chưa nói họ có cho tôi
về không, khi mà họ không chấp nhận lòng yêu Tự do của con người. Họ
cho đó là tự do theo kiểu Tây Phương.
Ông hiện sống êm ả trong vòng tay tổ quốc của chính
ông. Nếu ông còn lo lắng cho đất nước thì đó là niềm vui của ông "người
yêu nước" và Tổ quốc ông chấp nhận ông có quyền tự do theo quan niệm của
ông. Tôi vốn gốc
người tỵ nạn đào thoát khỏi nơi bạo lực chiếm cứ, xứ bạo quyền thống trị.
Họ hợp nhau thành giai tầng sống trong giàu sang trong khi người dân thiếu ăn
thiếu mặc và lắm kẻ tỵ nạn như tôi đâu
phải muốn về là được về.
Nước Pháp khi nhận tôi vào tỵ nạn đã cho tôi cơ hội
sống lại đời thật sự tự do trong chế dộ thật sự dân chủ tiến bộ với quyền làm
người đã bị Chuyên chính Độc đảng tước đoạt trên tôi, trên nhân dân tôi. Dù rất
thoải mái ngay trong Thủ đô Paris tôi luôn nhớ đến làng An Nhơn, nơi tôi sanh
thành, nơi giòng họ tôi đã gắn bó qua bao thế hệ.Tôi cũng tha thiết nhớ quê
hương đất nước núi cao rừng rậm, biển rộng sông dài trên đó ngay từ xa xưa, đã
có hơn 50 sắc tộc, tổng hợp mấy chục triệu người, đã từng… xuyên dòng lịch sử
chung sống với nhau, cùng ước ao Tự do Hoà bình; nhưng... rồi vẫn phải lao đao
lận đận bởi tham vọng quyền bính của vài "tập đoàn cá nhơn" đã dùng
cường lực đoạt lấy quyền uy, ngạo nghễ áp đảo, ngự trị nhân dân. Họ nghênh
ngang sống trên sang giàu với tài sản nguyên thủy là của chiếm đoạt bằng bạo lực
bạo quyền, nhũng lạm tham ô... ung dung hưởng thụ... trên ấm ức tủi hờn của dân
đen thiếu ăn thiếu mặc đêm đêm, trằn trọc khắc khoải, tự hỏi vì đâu nên nỗi?
Công bình xã hội là thế này sao?
Miền đất "hứa"của Thiên đường "mạc xít" sẽ ra
sao? có hư ảo không? khi mà bất bình đẳng kinh tế và bạo lực hung ác của quyền lực chánh
trị cứ mãi gia tăng, đào sâu thêm hận thù oán ghét trong lòng của từng từng lớp
lớp người bị trị đang sống trong tủi hờn, ngậm đắng nuốt cay, đau khổ nhìn con
em, rách rưới, bữa đói bữa no - với tuổi đời mới độ
trên mười - đã phải mò cua bên bờ sông, bắt ốc trong mương rạch, lang thang bên
những núi rác khổng lồ moi kiếm trong đồ phế thải, một vài vật dụng còn đôi
chút giá trị tiêu dùng hay trao đổi, để rồi...quặn thắt cả lòng khi ngước mắt nhìn.... con em các gia đinh cán bộ
đương quyền hay đại gia tư bản đỏ, mỗi ngày, mỗi đêm, nhởn nhơ sống đời vương
giả trong một quốc gia mà họ đã từng hãnh diện cam kết và khẳng định...
đang ở trong xu hướng... tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên "xã hội
chủ nghĩa"!
BÓNG
NGƯỜI TỴ NẠN
Người đi, mặt cúi....dáng bơ phờ.
Đôi mắt u buồn...tóc bạc phơ.
Đất khách tự do! Nhờ tỵ nạn.
Quê hương bạo lực! Thoát cơn mơ.
Mây ngàn! hạc nội! đời phiêu bạt
Bìm nổi! bèo trôi! kiếp vẩn vơ
Vương vấn trong tâm... hồn cố quốc
Đi trong thực tại.... ngỡ mình mơ !
Trọng
Khang - Lan Châu