„Hiểm họa của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long còn tiếp
diễn, vì một mặt, chính quyền Việt Nam không dám phản đối Trung Cộng trong việc
xây dựng các đập thủy điện bất chấp ảnh hưởng tới các nước phía dưới, mặt khác
vì chính quyền tham lam ăn hối lộ không quan tâm nghiên cứu và kiểm soát việc
khai thác cát trong vùng sông chảy qua.“
Hiểm họa ở đồng bằng sông Cửu Long: giòng nước sắp khô cạn!!
Ngô Nhân Dụng
Ký giả Navin Singh Khadka, chuyên trách
các vấn đề môi trường sống của BBC mới viết một bài mới, báo động tình trạng
đồng bằng sông Cửu Long nước ta đang gặp nạn; tai họa không những gây ra do các
đập nước của Trung Quốc ở đầu nguồn sông Mekong mà còn vì hành động của chính
người Việt Nam, trong lúc chính quyền hoặc làm ngơ không chú ý, hoặc bất lực
không làm gì được.
Khi Cộng Sản Trung Hoa cho xây các đập
thủy điện ngăn nước từ đầu nguồn sông Mekong, rồi các nước Lào, Thái Lan,
Campuchia cũng đua theo, số lượng nước chảy xuống sông Cửu Long ở nước ta đã
giảm bớt. Vì sức nước sông chảy yếu đi, nước biển đã dâng lên, tràn vào trong
đất liền.
Hiện nay mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long
đã bị nước biển liếm mất 500 mẫu tây (năm cây số vuông). Theo Viện Khoa Học
Thủy Lợi Miền Nam thì trong năm ngoái số ruộng lúa bị nước biển tràn và thấm
vào còn rộng hơn nữa, mất 60 cây số vuông không thể trồng trọt. Theo các nghiên
cứu khoa học của Ủy Ban Sông Cửu Long, một tổ chức của bốn nước Việt Nam, Thái
Lan, Lào và Campuchia, với tốc độ nước biển xâm nhập hiện nay, tới cuối thế kỷ
này vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất gần một nửa (40%) đất có thể trồng
trọt, vì mực nước biển sẽ lên cao thêm cả thước.
Nhưng không cần phải đợi tới cuối thế kỷ
đồng bào ta mới phải chịu tai họa. Ông Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên Cứu Biến
Ðổi Khí Hậu tại Ðại Học Cần Thơ, vì nước biển dâng lên, gần một nửa số dân sống
trong vùng sông Cửu Long đang thiếu nước ngọt để sử dụng. Nước biển xâm lấn
khiến những con đê ngăn nước mặn cũng hư không còn hiệu lực nữa. Tại vùng ven
biển, nước mặn đã vào sâu thêm 60 cây số trong đất liền. Một số nhà vườn trồng
xoài đã ngưng hoạt động, vì cây xoài chỉ sống được nếu nước mặn mỗi năm lên cao
dưới 1.6 mili mét; mà hiện nay mức dâng cao đã gấp ba lần (5 mili mét). Nhiều
nhà nông trồng lúa đã phải bỏ, quay sang nghề nuôi tôm. Theo nghiên cứu của Ủy
Ban Sông Mekong, hiện nay số đất phù sa bồi đắp lên vùng châu thổ sông Mekong
đã giảm bớt 85 triệu tấn so với năm 1992.
Ðầu mối tai họa này là chính sách khai
thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng Sản Trung Hoa. Sông
Mekong, tại Trung Hoa lục địa mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh
Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers
Review của cơ quan Sông Quốc Tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014,
Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước
Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây
thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt
chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.
Việc xây đập ảnh hưởng trên đời sống của
các dân tộc phía dưới nguồn sông. Vào mùa không mưa, dân chúng hai bên bờ sông
ở Lào, Thái Lan, phải dùng nước sông để tưới ruộng vườn, nay số lượng nước bị
giảm. Khí hậu hai bên bờ sông cũng thay đổi vì khối lượng nước trong con sông
có tác dụng giúp nhiệt độ ôn hòa, ít lên xuống hơn. Vì nhiệt độ thay đổi, đời
sống các giống cá trong lòng sông cũng bị ảnh hưởng. Nhưng tai họa lớn nhất là
nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh
chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan
sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.
Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình
thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ
Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung cộng: “Vào Tháng Tư năm
2001, Trung cộng đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ
với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt
mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên
sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có
thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống
thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối
nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”
Sau các tai nạn do các đập nước gây ra,
mối họa thứ hai là các công trường khai thác cát. Mỗi năm hàng triệu mét khối
cát được đào đem đi trong vùng hạ nguyên sông Cửu Long; nhiều nhất là ở
Campuchia và Việt Nam. Quỹ Thế Giới Bảo Vệ Thiên Nhiên (World Wide Fund for
Nature, WWF) cho biết riêng tại đồng bằng sông Cửu Long nước ta có 150 công
trường đào lấy cát, trải ra trong 13 tỉnh, tổng cộng rộng 80 cây số vuông. Các
công trường cát này đã được nhà nước cấp giấy phép. Trong năm năm nữa, các công
trình xây cất sẽ cần đến một tỷ mét khối cát; làm giảm bớt số ruộng đất trồng
trọt.
Các tổ chức bảo vệ môi trường đã báo động
và cảnh cáo chính quyền Việt Nam về tai hại của việc cho phép các công trường
đào cát hoạt động mà không nghiên cứu các ảnh hưởng sâu xa. Chính quyền biết
các mối tai hại đó những không làm gì cả. Khi được lệnh từ cấp trên, các địa
phương từ chối thi hành vì lý do không thể bồi thường thiệt hại cho các công ty
đã cấp giấy phép. Trong vấn đề này chưa có luật lệ nào bảo vệ môi trường sống
của mấy chục triệu người dân. Mà khi luật lệ không đầy đủ, không rõ ràng thì người
ta càng có thêm cơ hội tham nhũng!
Ngoài nạn lấy cát không có kế hoạch toàn
bộ, chính quyền còn đang thực hiện những công trình “vét bùn” nới rộng lòng
sông ở các khúc chi lưu nhỏ, thay đổi đời sống dân hai bên bờ. Nhiều con sông
phụ sâu dưới 5 mét không cho phép các tàu thủy lớn qua lại. Việc vét bùn sẽ mở
rộng đường giao thông nhưng không có kế hoạch củng cố bờ sông cho vững chắc
hơn; một hậu quả là sóng lớn xô vào làm bờ sông bị lở và đất ruộng bị thu hẹp.
Hiểm họa của người dân vùng đồng bằng sông
Cửu Long còn tiếp diễn, vì một mặt, chính quyền Việt Nam không dám phản đối
Trung Cộng trong việc xây dựng các đập thủy điện bất chấp ảnh hưởng tới các
nước phía dưới, mặt khác vì chính quyền tham lam ăn hối lộ không quan tâm
nghiên cứu và kiểm soát việc khai thác cát trong vùng sông chảy qua.
Chỉ khi nào Việt Nam có một chính quyền không lệ
thuộc Cộng Sản Trung Hoa, nước ta mới có tiếng nói mạnh mẽ để cùng các nước
trong vùng sông Mekong ngăn chặn việc Trung Cộng xây đập nước mà không tham
khảo ý kiến các nước lân cận.
Chỉ
khi nào Việt Nam có một guồng máy nhà nước do người dân bỏ phiếu bầu, biết lo
cho dân thay vì chỉ lo tranh giành chức vụ để mưu lợi cho bản thân và gia đình
thì đồng bào sống trong vùng đồng bằng sông Cửu Long mới thoát khỏi mối hiểm
họa đang đe dọa.