Barry Desker (RSIS) (S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological
University Singapour)
Trường Sơn chuyển ngữ
US and Singapore Navy ships transit South China Sea in formationTrường Sơn chuyển ngữ
Ngày 8 tháng 7 năm 2015,
Tòa án Trọng tài quốc tế ở thành phố The Hague[1] đã
bắt đầu thảo luận về việc liệu họ có đủ thẩm quyền hay không để giải quyết
tranh chấp giữa Philippines và Trung cộng trong vấn đề khai thác tài nguyên
biển ở Biển Đông, điểm nóng của những xung đột về chủ quyền lãnh thổ. Phía
Philippines khẳng định rằng Tòa án Quốc tế này là địa điểm thích hợp nhất cho
các thủ tục tố tụng. Còn phía Trung cộng không công nhận thẩm quyền của Tòa án
và tuyên bố rằng những tranh chấp chỉ xoay quanh chuyện chủ quyền, không phải
vấn đề khai thác tài nguyên.
Một
tấm ảnh do Philippines cung cấp hồi tháng Tư cho thấy Trung cộng đang xây cất
trên các bãi đá xuanh quanh quần đảo tranh chấp ở Trường Sa tại Biển Đông.
Photo: Armed Forces of the Philippines/European Pressphoto Agency
Việc Trung cộng không
thừa nhận giới trọng tài quốc tế như bên thứ ba hợp cách đã tạo ra tác động
tiêu cực đến tiến trình đàm phán nhằm sớm ký kết bộ Quy tắc Ứng xử (Code of
Conduct – COC) ở Biển Đông. Mặc dù việc thương thuyết đã được khởi sự vì sự nhu
cầu bức thiết để kết thúc nhanh các cuộc đàm phán và sáng kiến “chương trình
thu hoạch sớm”[2] đã
được thảo luận, quá trình này vẫn diễn ra rất chậm. Kiểu đàm phán như vậy đã
nhắc giới quan sát viên rằng các bên tham gia đàm phán đã phải mất 10 năm
(2002–2012) để kết thúc thỏa thuận Tuyên bố về Quy tắc Ứng xử (DOC) và khởi đầu
của cuộc đàm phán về COC giữa ASEAN và Trung cộng. Điều khiến dư luận lo ngại
nhất là COC sẽ mất hơn một thập kỷ đàm phán nữa trước khi đạt được thỏa thuận
cuối cùng.
Cách tiếp cận hai
chiều của Trung cộng
Hội nghị thượng đỉnh
Asean/Trung cộng lần thứ 17 tại Nay Phi Taw, Miến Điện, diễn ra vào ngày 13
tháng 11 năm 2014, đã thống nhất về “việc thực hiện chương trình thu hoạch sớm,
bao gồm cả việc thông qua Danh sách Các điểm Tương đồng Đầu tiên[3] của
tham vấn COC, việc thành lập một đường dây nóng nền tảng giữa các cơ quan tìm
kiếm và cứu hộ, một đường dây nóng tình trạng khẩn cấp hàng hải giữa các bộ
ngoại giao, và một chương trình tìm kiếm cứu nạn nhằm thúc đẩy và tăng cường
lòng tin, cũng như sự tự tin trong khu vực”.
Danh sách các điểm tương
đồng này đã tái khởi động nguyên tắc về Biển Đông vốn được đề cập trong Tuyên
bố năm 2002. Cách người Trung cộng bắt đầu cuộc thảo luận với những vấn đề này
đã khiến một số luồng dư luận trong ASEAN quan ngại rằng, trên thực tế, việc
tập trung vào danh sách những điểm tương đồng và mục tiêu tìm kiếm cứu nạn
(SAR) có thể tạo điều kiện để chính phủ Trung cộng lảng tránh việc họ tìm cách
nắm quyền kiểm soát vùng Biển Đông.
Tại Hội nghị, Thủ tướng Trung
cộng Lý Khắc Cường đã nhấn mạnh cách tiếp cận “hai chiều”, chủ trương giải
quyết tranh chấp lãnh thổ với các nước liên quan trực tiếp thông qua các vòng
đàm phán và tư vấn dựa trên những sự kiện lịch sử, luật pháp quốc tế và DOC,
trong khi ASEAN và Trung cộng vẫn làm việc với nhau để duy trì hòa bình và sự
ổn định ở Biển Đông thông qua việc thực hiện DOC và việc tham vấn về COC. Đây
chính là một cách tiếp cận khôn khéo có thể giúp Trung cộng loại trừ giới trọng
tài quốc tế, cũng là bên thứ ba, hoặc mọi nỗ lực hòa giải trực tiếp trong giải
quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên biển.
Trước mắt, chiến lược
của Trung cộng đã tạo ra một hậu quả là làm tăng khuynh hướng ly tâm trong
ASEAN về vấn đề Biển Đông. Trong số các quốc gia đối đầu trực tiếp với Trung
cộng, Philippines và Việt Nam đã xác định lập trường vững chắc và thường xuyên
nỗ lực chống lại những động thái xâm lấn của Trung cộng nhằm thiết lập quyền
kiểm soát. Với Malaysia và Brunei, nhìn chung, họ vẫn đang làm ngơ trước sự
hiện diện ngày càng tăng của hải quân Trung cộng, cũng như lực lượng bảo vệ bờ
biển và bảo vệ thủy sản của quốc gia này trong vùng biển tranh chấp (mặc dù
Malaysia đã xác lập một vị thế vững chắc hơn qua các cuộc họp với Trung cộng
trong mấy tháng gần đây).
Indonesia đã công khai
tuyên bố rằng họ không xung đột về lãnh hải với Trung cộng, mặc dù lực lượng
tuần tra thường trực của Trung cộng ở vùng biển Indonesia đã tuyên bố chủ quyền
với vùng phía bắc quần đảo Natuna. Quan điểm của Singapore là trung lập và
không tham gia vào những mâu thuẫn về lãnh hải, nhưng họ cũng đã tích cực hỗ
trợ việc thiết lập một khuôn khổ sẽ tạo thuận lợi để giải quyết khiếu nại.
Campuchia thì thẳng thắn
bày tỏ thiện cảm với những nỗ lực của Trung cộng nhằm giảm nhẹ vấn đề, chính
phủ của quốc gia này cũng đã tránh nhắc đến bất kỳ vấn đề nào liên quan đến
tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông khi họ tổ chức Hội nghị Bộ trưởng ASEAN hồi
tháng 7 năm 2012. Kết quả là, lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN, các nước thành
viên không thể đưa ra một tuyên bố chung. Trong các cuộc thảo luận nội bộ tiếp
theo của ASEAN, Campuchia đã xác định lập trường ủng hộ Trung cộng.
Thái Lan, Lào và Miến
Điện xem cách ASEAN dàn xếp tình trạng tranh chấp chủ quyền không hơn gì một
hướng giải quyết chỉ làm suy yếu nỗ lực xây dựng quan hệ hợp tác dựa trên lợi
ích chung giữa Trung cộng và các nước ASEAN, đặc biệt là về hợp tác kinh tế và
những mục tiêu phát triển. Các nước Đông Nam Á đất liền này cũng đã xác lập
quan điểm ủng hộ phương pháp tiếp cận của Trung cộng trong những thảo luận
tương lai về xung đột chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông.
Mối liên kết không bền
vững của ASEAN
Như vậy, các nước ASEAN
thực sự không đoàn kết trong vấn đề Biển Đông. Khi quyết định trong ASEAN đang
đến gần sự đồng thuận, quan hệ đồng minh giữa Trung cộng và Campuchia lại tạo
thành trở lực trong những cuộc tranh luận nội bộ về chủ đề này, cũng như thái
độ thiếu hợp tác của Thái Lan, Lào và Miến Điện đang cho thấy ngày càng rõ nguy
cơ rằng Hội nghị Bộ trưởng ASEAN trong tương lai và thậm chí Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN có thể bị sa lầy trong cảnh không thể tìm được tiếng nói chung. Lợi
ích của Trung cộng vẫn sẽ được bảo vệ trong khi rạn nứt của nội bộ ASEAN thì
ngày càng trầm trọng.
Nguy cơ này đang làm các
nước ASEAN thay đổi dần thái độ với Hoa Kỳ, vốn được xem là siêu cường duy nhất
có thể làm đối trọng với Trung cộng. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ-ASEAN vào
tháng 10 năm 2014, Tổng thống Obama kêu gọi tất cả các bên cùng kiềm chế, dù
cho quan điểm này được trình bày như một “lệnh đình chỉ” hoặc là “yêu cầu thực
hiện Điều 5 của DOC” hay không – Trung cộng vẫn xem một cử chỉ như vậy là sự
can thiệp từ bên ngoài đối với một mâu thuẫn phải được giải quyết bởi các quốc
gia trong khu vực.
Trong khu vực Đông Nam
Á, quan hệ giữa Việt Nam, cũng như Philippines, với Hoa Kỳ ngày càng phát
triển. Trong một chuyến thăm mang tính đột phá, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Hoa Kỳ từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 7 và đã gặp
Tổng thống Obama. Trong khi quan hệ thương mại và kinh tế của Việt Nam với Trung
cộng vẫn tăng mạnh, quan hệ chính trị và ngoại giao của nước này với Hoa Kỳ đã
chuyển từ trạng thái nghi ngờ do những những hậu quả của chiến tranh Việt Nam
sang hình thái của một quan hệ đối tác mới.
Một cột mốc quan trọng
trong tiến triển về ngoại giao này là việc Việt Nam tham gia đàm phán trong
Hiệp định Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cách Việt Nam hỗ trợ Hoa
Kỳ thiết lập vai trò lớn hơn trong khu vực, vai trò mà người Mỹ xem là quyền
lực Thái Bình Dương. Tương tự như vậy, Philippines đã chuyển từ thái độ kêu gọi
người Mỹ rút quân ở căn cứ không quân Clark và căn cứ hải quân Subic từ năm
1992 sang tinh thần hợp tác quân sự mới, bao gồm việc ký kết Hiệp ước Tăng
cường Hợp tác quốc phòng (EDCA) với thời hạn mười năm, khiến nước này như trở
thành một nước NATO không chính thức và cũng là đồng minh ủng hộ mạnh mẽ đối
với chính sách xoay trục sang châu Á và tái cân bằng lợi ích an ninh của người
Mỹ.
Những diễn biến này cũng
chính là lời nhắc nhở rằng kế hoạch đầy tham vọng của Trung cộng nhằm mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước ASEAN có thể bị suy yếu bởi chính tiến trình suy
thoái trong nội bộ ASEAN bởi những yêu sách về lãnh hải ở Biển Đông.
Kế hoạch vận động các
nước ASEAN như một canh bạc của Trung cộng
Trong chuyến thăm
Indonesia vào tháng 10 năm 2013, Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình kêu gọi thành
lập Con đường Tơ lụa Hàng hải trong thế kỷ 21 nhằm phát triển quan hệ hợp
tác hàng hải với ASEAN.
Khi ấy, ông Tập đã trình
bày sáng kiến thiết lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á[4]
(AIIB) do Trung cộng lãnh đạo với vốn đăng ký 100 tỷ USD.
Cuối cùng, có 50 quốc gia
đồng ý trở thành thành viên sáng lập, gồm cả các đồng minh của Hoa Kỳ như Anh,
Đức, Pháp và Ý, họ đã cùng ký kết các điều khoản của Hiệp định thành lập Ngân
hàng trong tháng 6 năm 2015. Nhật Bản, cũng như Hoa Kỳ, đứng ngoài quá trình
thành lập tổ chức mới này, bề ngoài là vì lo ngại vấn đề quản trị.
Chủ tịch Tập cũng chú
trọng thúc đẩy đầu tư xây dựng cảng, phát triển dịch vụ hậu cần, xây dựng hệ
thống đường bộ và đường sắt để tăng cường liên kết giữa các cảng và khu vực nội
địa, cũng như hợp tác kỹ thuật và khoa học trong các vấn đề môi trường. Những
đề nghị này phản ánh mô hình phát triển kinh tế theo định hướng tập trung vào
cơ sở hạ tầng và sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho những công ty phát triển cơ sở hạ
tầng đẳng cấp quốc tế của Trung cộng.
Sáng kiến của ông Tập
ở Jakarta cũng gắn liền với kế hoạch của Tổng thống Indonesia Joko Widodo nhằm
nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng hàng hải của Indonesia và đã được ủng hộ trong
khu vực. Các nước ASEAN đều ủng hộ mạnh mẽ đề nghị thành lập AIIB bất chấp ý
kiến phản đối từ Mỹ AIIB vì họ cho rằng liên minh tài chính hùng mạnh này có
thể góp phần khắc phục sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng tài chính trong khu vực.
Khẩu hiệu “Một Vành đai,
một Tuyến đường” chính là nền tảng cho kế hoạch của Trung cộng nhằm thiết lập
“con đường tơ lụa” mới nối liền Trung Á và châu Âu, cũng như Con đường Tơ lụa
Hàng hải có thể nối liền Đông Á với Trung Đông và châu Âu. Những sáng kiến
này được triển khai để thúc đẩy phát triển thương mại, tạo cơ hội cho việc
đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng mạng. Tại Hội nghị các nhà Lãnh đạo của Tổ
chức Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 10 năm 2014, Chủ
tịch Tập Cận Bình công bố ngân sách Con đường Tơ lụa trị giá 40 tỷ USD để đầu
tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tính liên tục trong những
kế hoạch chiến lược của Trung cộng
Đề nghị thiết lập hai
con đường tơ lụa đã gây chú ý đến tính liên tục trong quá trình lập kế hoạch
chiến lược của Trung cộng, cũng như sự thay đổi phản ánh những rủi ro vừa xuất
hiện. Lịch sử Trung cộng thời cổ và trung đại là lịch sử tập trung về phía tây,
về phía Trung Á, nguồn gốc của mọi mối đe dọa trực tiếp trên đất liền đối với
nền quân chủ Trung Hoa. Tuy nhiên, hiện giờ, mọi nguy cơ còn tiềm ẩn ở hướng
tây chỉ còn xoay quanh những hỗ trợ cho nhu cầu ly khai của người Duy Ngô Nhĩ
từ những tộc người cùng tôn giáo nói tiếng địa phương Turk, cũng như nhu cầu
đòi độc lập cho Tây Tạng. Đây đều là những mối đe dọa trong nước và chấp nhận
được, mặc dù vẫn có giả định quan ngại rằng các tổ chức như Nhà nước Hồi giáo
có thể kết hợp chủ nghĩa dân tộc Duy Ngô Nhĩ, trong khuôn khổ hồi giáo cực
đoan, để cùng hành động vì một cuộc thánh chiến toàn cầu.
Mặt khác, khi quyền lực
của Trung cộng ngày càng tăng, giới hoạch định chính sách Trung cộng nhận ra
rằng siêu cường duy nhất có khả năng đe dọa lợi ích của quốc gia này chỉ có thể
là Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ từ những quan hệ đồng minh toàn cầu. Kể từ sau Thế
chiến Thứ hai, Hoa Kỳ đã triển khai thành công lực lượng quân sự trên khắp thế
giới bởi ưu thế của lực lượng hải quân và không quân trong khi sức mạnh kinh tế
duy trì vị thế siêu cường của quốc gia này.
Hoàn cảnh như vậy đã
khiến Trung cộng phải thay đổi lập trường và tập trung vào hướng đông, con
đường tiến vào Thái Bình Dương. Trong những thập kỷ tới, Trung cộng sẽ không
ngừng củng cố khả năng phòng thủ trên không và trên biển, cũng như ngày càng
chú trọng xây dựng quan hệ kinh tế và chính trị chặt chẽ hơn với các quốc gia
ven biển trên Con đường Tơ lụa Hàng hải. Do đó, thái độ gây hấn và đối đầu của Trung
cộng trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông lại có thể làm suy yếu chính những
liên minh chính trị và quan hệ đối tác mà Trung cộng muốn theo đuổi với các
quốc gia trong khu vực.
________
[1] The Hague: là một thành phố của Hà Lan (Den
Haag hay ‘s–Gravenhage trong tiếng Hà Lan), được cả thế giới biết đến như thủ
đô chính trị của quốc gia này.
[2] Chương trình thu hoạch sớm (EHP – Early Harvest
Program): theo thỏa thuận của chương trình này thì Việt Nam và Trung cộng đều
cắt giảm thuế quan theo hướng Trung cộng cắt giảm nhiều hơn, Việt Nam cắt giảm
chậm hơn.
[3] Để làm cơ sở cho các cuộc đàm phán sắp tới nhằm
hướng đến hoàn tất dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
[4] Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (Asian
Infrastructure Investment Bank — AIIB) là một tổ chức tài chính quốc tế đang
trong quá trình thành lập với mục tiêu là hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Khởi sự như một sáng kiến của chính quyền Trung
cộng, tổ chức này đã nhận được sự ủng hộ của các Thành viên Sáng lập Dự kiến
bao gồm 37 nước trong khu vực và 20 nước ngoài khu vực, 51 trong số đó đã ký
Điều khoản Thỏa thuận để hình thành cơ sở pháp lý cho ngân hàng. Các nước có
GDP lớn nhưng không phải quốc gia sáng lập là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada.
Một số người xem AIIB là
đối thủ của IMF, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), vốn
là những tổ chức tài chính được xem là bị chi phối bởi các nước phát triển như
Hoa Kỳ. Liên Hợp Quốc xem việc mở ra AIIB là sự “mở rộng quy mô tài chính cho
phát triển bền vững” cho các mối quan tâm của Quản trị Kinh tế Toàn cầu.
***
Barry Desker
là Giáo sư chuyên ngành Chính sách Đông Nam Á, Trưởng khoa Nghiên cứu Quốc tế
S. Rajaratnam (RSIS), Đại học Công nghệ Nanyang (Nanyang Technological
University – NTU), Singapore.
Khoa Nghiên cứu Quốc tế
S. Rajaratnam (RSIS), thành lập năm 2007 tại Đại học Công nghệ Nanyang (Nanyang
Technological University – NTU) ở Singapore, là một trung tâm hàng đầu chuyên
nghiên cứu và giảng dạy các vấn đề chiến lược và quốc tế trong khu vực châu Á
Thái Bình Dương. Trung tâm này chuyên nghiên cứu về tình hình an ninh khu vực,
chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa khu vực, nghiên cứu xung đột, an ninh phi
truyền thống, kinh tế chính trị quốc tế và nghiên cứu các nước và các vùng
trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.