Luật
Sư Nguyễn Hữu Thống
Theo Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày
9-12-1998, Liên Hiệp Quốc thừa nhận sự quan trọng của cuộc hợp tác quốc tế nhằm
loại trừ hữu hiệu các vi phạm nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của các
dân tộc và các cá nhân trong đó phải kể đén những vi phạm tập thể, thô bạo và
có hệ thống bắt nguồn từ sự kỳ thị chủng tộc, từ chế độ thực dân, đô hộ
hay chiếm đóng, sự gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự
toàn vẹn lãnh thổ do sự phủ nhận quyền dân tộc tự quyết và
quyền của các dân tộc và các cá nhân được hành sử đầy đủ chủ quyền của
họ đối với tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.
A. VỀ SỰ TÔN TRỌNG CÔNG
ƯỚC QUỐC TẾ
Mới đây, các học giả trong Viện Nghiên Cứu Chính Sách
Hoa Kỳ đã phê phán chính sách bá quyền của Trung cộng là Chính Sách
Phát Xít Cổ Điển. (Bejiing Embraces Classical Fascism).
Thay vì tiếp thu chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng theo sự
mong đợi của mọi người, giới lãnh đạo Trung cộng càng ngày càng trở nên giáo
điều và bảo thủ. Cũng như tại Ý Đại Lợi, 50 năm sau Cách Mạng Phát Xít,
Mussolini đã chết nhưng Nhà Nước Ý vẫn giữ chế độ độc tài và chủ yếu vẫn đàn áp
chính trị. Để biện minh cho chế độ, họ thường xuyên nêu lên quan hệ về sự vinh
quang cổ xưa của “Dân Tộc Ý Vĩ Đại”. Từ thế kỷ thứ nhất Đế Quốc La Mã đòi chủ
quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Địa Trung Hải chạy từ Tây Âu (Tây Ban Nha) qua
Tây Á (Thổ Nhĩ Kỳ). Họ gọi đó là biển lịch sử hay Biển Của Chúng Tôi (Mare
Nostrum, Our Sea).
Ngày nay, phỏng theo Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển Ý, Bắc
Kinh cũng đề xướng “Dân Tộc Hán Vĩ Đại” nhằm phục hồi Đế Quốc Đại Hán.
Chủ
trương cố hữu của Bắc Kinh được quy định như sau: Những lãnh thổ trước kia
đã được Trung Hoa chinh phục và khai hóa nay phải trả về cho (Trung cộng) văn
minh chứ không thể thuộc về phe (Đế Quốc) dã man. Đó
cũng là nhận định của Tiến Sĩ Lo Chi-Kin từ Hồng Kông trong Luận Án Tiến Sĩ đệ
trình Đại Học Kinh Tế Chính Trị Luân Đôn năm 1986. (Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes,
Routledge London, 1989).
Trong Chiến Tranh Biên Giới
Ấn-Hoa năm 1962 Trung cộng đòi chủ quyền vùng biên giới Ấn Độ rộng 90 ngàn cây số vuông thuộc tiểu bang Arunachal Pradesh phía Đông Bắc.
Giáo Sư
C. P. Fitzerald tại Đại Học Oxford cũng quan niệm như Tiến Sĩ Lo Chi-Kin:
“It is
the belief of the Chinese that territory once won for civilization must not be
given back to barbarism. Therefore territory which was once Chinese must
forever remain so, and, if lost, must be recovered at the first opportunity”. C.
P. Fitzgerald, The Chinese View of Foreign Relations, 1963.
Chính
Sách Bá Quyền được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lược Sử Tân Trung Hoa” có
kèm theo bản đồ và lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: “Tất cả các lãnh thổ và hải
đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa đã từng bị phe các Đế Quốc Tây Phương
và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như Ngoại
Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Hồng
Kông, Macao, cùng những đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Ryukyu,
Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung cộng”.
Hiện nay,
tại vùng Biển Đông Nam Á, rập theo tham vọng của Đế Quốc La Mã hồi
thế kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra
thuyết Biển Lịch Sử hay Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn và coi đó là
mục tiêu chiến lược từ 1955, nhất là từ khi Trung cộng ký Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica ngày 10-12-1982. Công Ứớc này đã
được phê chuẩn để có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Tuy nhiên
thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái những điều khoản của Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc
Tế The Hague.
Theo Công Pháp Quốc Tế
Chiếu
Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải được hưởng
quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để thăm dò và khai thác dầu khí. Đây
là chủ quyền chuyên biệt (sovereign exclusive right), không
tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị
(occupation, exploration or assertion of right). Mọi sự tự tiện chiếm cứ của
ngoại bang dầu có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu
lực (các Điều 77 và 81).
Về
mặt địa lý, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lý
của Việt Nam.
Về
mặt địa chất, các chuyên gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và
vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất, các đảo Hoàng
Sa là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam). Về địa hình đáy biển Hoàng Sa là một cao nguyên chìm
dưới đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam.
Vì đáy biển Hoàng
Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài
biển nên chiếu Điều 76 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Việt Nam có triển vọng được Ủy Ban Định Ranh Thềm
Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (370km)
thành Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng có thể đến 350 hải lý
(650km).
Trong khi
đó từ Hoàng Sa về lục địa Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2,300m. Như vậy về
mặt địa chất và địa hình đáy biển, Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên
của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này Trung Hoa
không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng. (Extended Continental Shelf).
Tại Trường
Sa cũng vậy, tại Bãi Thanh Long Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, độ
sâu chỉ tới 400m, và tại đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa
chất và địa hình đáy biển, cũng như Hoàng Sa, các
đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài
biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling trong
Bản Tường Trình ngày 19-6-1995 gửi Chính Phủ Việt Nam, quần đảo Trường Sa có triển vọng được hưởng quy chế
Thềm Lục Địa Mở Rộng đến mức tối đa 350 hải lý.
Trong khi
đó từ Trường Sa về bờ biển Quảng Đông có một rãnh biển sâu tới 4,550m.
Như vậy các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung
Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Và Trung cộng không được hưởng quy chế Thềm Lục
Địa Mở Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng cách từ Hoa
Lục tới đảo Trường Sa là 750 hải lý (quá xa tầm 350 hải lý Thềm Lục Địa Mở Rộng
nếu có).
Hơn nữa,
về mặt địa lý, Bãi Thanh Long Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ cách
lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Trong khi đó quần đảo Trường Sa
cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải lý nên không nằm trong thềm lục
địa Trung Hoa.
Ngày
14-7-1995 nhân danh Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California người
viết bài này đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội Các
Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) yêu cầu các quốc gia duyên hải Biển Đông Nam Á đưa
vụ tranh chấp ra trước Tòa Án Liên Hiệp Quốc về Luật Biển hay Tòa Án Quốc Tế
The Hague để phân định chủ quyền các hải đảo và các vùng hải phận của các quốc
gia duyên hải. Đồng thời đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành Biển Đông Nam
Á. Vì Biển Nam Hoa có thể được giải thích sai lầm là biển của nước Trung
Hoa về phía nam.
Trong Bản
Tường Trình nạp tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc ngày 11-
5-2009, Chính Phủ Bắc Kinh cố tình đề cập đến hải phận trên
bản đồ Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn mà họ gọi là Biển Lịch Sử. Chứ không vẽ Thềm Lục
Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật như Quy Chế
Liên Hiệp Quốc đòi hỏi. Do đó Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đã bác bỏ không cứu
xét đơn thỉnh nguyện năm 2009 của Bắc Kinh.
Lưỡi Rồng Trung
cộng
Lưỡi Rồng
Trung cộng (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò) chiếm 80% hải phận Biển
Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ biển các quốc gia duyên hải, chỉ cách Quảng
Ngãi 40 hải lý, và cách Phi Luật Tân và Mã Lai 25 hải lý.
Như vậy nó tước đoạt ít nhất 160 hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, và 175
hải lý của các Thềm Lục Địa Phi Luật Tân và Mã Lai. Đây hiển nhiên là sự vi phạm thô bạo Công Ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển dành chủ quyền chuyên biệt cho các quốc gia duyên hải
như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai được hưởng tối thiểu 200 hải lý Thềm
Lục Địa Pháp Lý để thăm dò và khai thác dầu khí.
Theo Học Giả Mark J. Valencia tại Viện
Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute) yêu sách của Trung cộng về Biển Lịch Sử không được
Luật Pháp và Tòa Án chấp nhận. Ngày nay càng ngày dư luận quốc tế càng phê phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung
cộng là khôi hài và lố bịch (China’s claim is being
increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China Sea
Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).
Mặc dầu
vậy, từ 1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá Quyền, Bắc Kinh lại nêu lên thuyết
Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền lãnh thổ tại vùng hải phận và các hải đảo Hoàng
Sa Trường Sa. Họ cho đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”.
Về điểm
này chúng ta nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ này và
dưới vòm trời này, không có điều gì, việc gì, hay vấn đề gì là bất khả tranh
nghị! Về mặt tinh thần, văn hóa, pháp lý và đạo lý, Trung cộng không thể
nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn trọng danh dự quốc gia và
chữ ký của họ trong các Công Ước Quốc Tế. Họ phải chấp nhận công
khai hóa vụ tranh chấp và phải đưa ra trước thanh thiên bạch nhật những tài
liệu và quan điểm cho biết tại sao và căn cứ vào đâu mà đòi tước đoạt chủ quyền
lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại các thềm lục địa như đã quy định trong
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung cộng đã ký kết tham gia
với tư cách một trong Ngũ Cường hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An? Nếu không
đưa ra sự giải thích hợp lý và các cơ sở pháp lý thì Trung cộng vẫn chỉ là kẻ
sử dụng Luật Rừng Xanh Mạnh Được Yếu Thua. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục
Địa Pháp Lý của Việt Nam, đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục
Địa Pháp Lý của Phi Luật Tân và Mã Lai.
Hơn nữa,
chiếu các Điều 77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chủ quyền của
các quốc gia duyên hải tại Thềm Lục Địa có tính tuyệt đối và
chuyên biệt. Bất cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu là xâm chiếm
võ trang hay không võ trang cũng đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực.
Cũng như việc Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp các hải đảo và hải phận tại
Hoàng Sa và Trường Sa thời Thế Chiến II từ 1938 đến 1945.
Chắc hẳn Trung
cộng cũng hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển 1982 là một văn kiện chính sử mà
các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc đã ký kết có nghĩa vụ phải tôn trọng và
thực thi.
Ngoài
Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử
rút ra từ chính sử Trung cộng theo đó chủ quyền của Việt Nam tại các hải đảo
Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa nhận bởi các quốc gia trên thế giới kể
cả Trung cộng.
Tuyên Cáo Cairo
1943
Trong khi
Thế Chiến II còn đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi
Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa
Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đã ký Tuyên Cáo
Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:
“Đối
tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các
lãnh thổ và hải đảo tại Thái Bình Dương mà Nhật đã cưỡng chiếm từ khi khởi sự
Thế Chiến I. Tất cả các lãnh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của nhân
dân Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ phải giao
hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc”. Điều đáng lưu ý là, tại
Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa và Trường
Sa. Và như vậy đã khước từ chủ quyền tại hai
quần đảo này. (U. N. Treaty Series, American Policy 1950-1955)
Theo công
pháp quốc tế Tuyên Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế tạo nên những nghĩa
vụ quốc tế áp dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu lực cưỡng hành đối với Trung
Hoa, dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là quốc
gia kế thừa chủ quyền. Đặc biệt là, trong hiện vụ, ngày
4-12-1950, Chu Ân Lai,
lúc này là ngoại trưởng, cũng đã tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943
là văn kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung cộng đã ký kết để làm căn bản cho Hòa Ước với
Nhật Bản (Hòa Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai’s Statement on the
Peace Treaty with Japan. People’s China, 12-16-1950).
Hội Nghị Hòa Bình
San Francisco 1951.
Năm 1951,
51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị để ký Hòa Ước Cựu Kim Sơn ngày 8-9-1951. Mục
đích để chấm dứt tình trạng chiến tranh, phục hồi và tái thiết Nhật Bản nhằm
xây dựng hòa bình thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và hữu nghị theo
tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Ngày
12-7-1951 Ban Tổ Chức Hội Nghị San Francisco phổ biến bản Dự Thảo Hòa Ước trong
đó Điều 2 về Lãnh Thổ (Territory) đề cập đến những vấn đề chủ yếu như sau:
- Nhật Bản khước từ chủ quyền tại đảo Đài
Loan và quần đảo Bành Hồ [để giao hoàn cho Trung
cộng].
- Nhật Bản khước từ chủ
quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để
giao hoàn cho Việt Nam].
Đây là một quyết định hợp lý.
Ngày
5-9-1951, trong phiên Khoáng Đại thứ 5, Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ
trình Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây
Sa và Nam Sa) cho Trung cộng. Tuy nhiên Tu Chính Án này đã bị Hội Nghị
bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng.
Ngày 7-9-1951, trong phiên
Khoáng Đại thứ 7, Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Trần Văn Hữu,Trưởng
Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại các
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản kháng nào của 50 quốc gia
tham dự Hội Nghị (kể cả Liên Xô).
Với sự
công bố chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa Trường Sa trước 50 quốc gia hội viên
Liên Hiệp Quốc tham dự Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định
rằng: Từ
1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới thừa
nhận thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chứ không thuộc chủ quyền của Trung cộng.
Hiệp Định Geneva 1954
Tháng
7-1954, để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva được triệu
tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ Cường Mỹ, Anh,
Pháp, Liên Xô và Trung cộng, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt
Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc).
Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của
Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Thật
vậy Điều 4 Hiệp Định Geneva 1954 quy định như sau:
“Giới
tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài
ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.
“Lực
lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút
khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17).
“Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo
phía Nam giới tuyến”(Vĩ Tuyến 17) nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ Vĩ
Tuyến 17 đến Vĩ Tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau). .Do đó chiếu Hiệp
Định Geneva 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam Cộng Hòa. (Từ 1955 Quốc Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy
quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa).
Vì Bắc
Việt không có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ Tuyến 17 vào Nam, nên không có tư cách
để chuyển nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung cộng. Hậu quả là Công Hàm
Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14-9-1958 không có giá trị và không có hiệu
lực pháp lý.
Căn cứ
vào những tài liệu lịch sử nói trên, Trung cộng đã ý
thức sự yếu kém của họ về cả ba mặt pháp lý, địa lý và lịch sử. Do
đó họ không bao giờ dám công khai thảo luận về vấn đề tranh chấp chủ quyền các
hải đảo và hải phận tại Biển Đông Hải. Họ thường tránh né và cho đó là một vấn đề bất
khả tranh nghị. Lý do là vì họ không có tài liệu hay lý lẽ gì để
đưa ra tranh nghị công khai dưới thanh thiên bạch nhật trong tinh thần chính
đại quang minh. Tất cả lý lẽ và lập trường của Trung cộng chỉ thu gọn trong
câu: “Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung cộng”. Theo các luật
gia và chuyên viên hải học trên thế giới, thuyết Biển Lịch Sử của Đế Quốc Đại
Hán đã lỗi thời và lạc hậu.
Kể từ
1982, vấn đề Biển Lịch Sử đã được giải quyết chung thẩm bởi Điều 8 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển:
“Tòa Án
Quốc Tế The Hague định nghĩa Biển Lịch Sử là Nội Hải, nghĩa
là vùng biển tọa lạc trên đất liền về phía bên trong đường cơ sở (ranh giới)
của Biển Lãnh Thổ. Theo Tòa Án Quốc Tế: “Biển Lịch Sử hay nội
hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền về phía bên trong đường cơ sở của
biển lãnh thổ”. (The International Court of Justice has defined
“historic waters” as “internal water” (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I.
C. J. 116, 130); “Waters on the landward side of the baseline of the
territorial sea form part of the internal water of the State” (Art. 8 LOS
Convention 1982).
Vì
vậy Biển Nam Hoa chỉ được coi là ngoại hải, chạy từ bờ biển Trung Hoa
đến bờ biển Nam Dương, và rộng tới 2000 cây số. Lẽ dĩ nhiên nó
không phải là Biển Lịch Sử hay Thềm Lục Địa của Trung Hoa.
Đổi
Mới hay Chiến Thuật Giai Đoạn?
Một vấn đề thời sự đáng lưu ý
là ngày 14-12-2012 Trung cộng đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ đăng ký chủ quyền tại
Đông Trung cộng Hải (Biển Hoa Đông) nhân vụ tranh chấp chủ quyền các hải đảo
Điếu Ngư (Diaoyu) hay Senkaku tiếp giáp Okinawa của Nhật Bản.
Trong vụ này Bắc Kinh cũng viện dẫn Điều 76 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đòi chủ quyền lãnh thổ Điếu Ngư vì
cho rằng đảo này tọa lạc trong Thềm Lục Địa 200 hải lý tại Biển Hoa Đông. Điểm
đặc biệt là trong suốt thời gian 3 thập niên (từ tháng 12-1982 khi Trung cộng
ký Công Ước đến tháng 12-2012 khi đăng ký chủ quyền hải đảo Điếu Ngư) chưa bao
giờ Trung cộng thừa nhận, tôn trọng hay thi hành Công Ước.
Với sự chấp chính của Tập Cận Bình, tự nhận là đại
diện cho phe đổi mới và trọng pháp, những người am tường sách lược Cộng Sản vẫn
hoài nghi cho rằng Trung cộng phát động mặt trận pháp lý như một mục tiêu
lạc hướng nhằm xoa dịu những bất mãn của quần chúng và những khó khăn nan
giải của chế độ.
Trong trường hợp Bắc Kinh yêu cầu Liên Hiệp Quốc áp
dụng Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển cho vụ tranh chấp tại các đảo
Điếu Ngư trong Biển Đông Trung Hoa thì họ cũng phải tôn trọng và áp dụng Điều
76 Luật Biển cho các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông Nam Á.
Và Như Vậy Là Công Lý.
LS Nguyễn Hữu Thống
Nguồn: http://www.ubcv.org/?p=2393
Đọc
thêm:
VỀ
TRUNG HOA SỬ LIÊN QUAN ĐẾN HOÀNG SA TRƯỜNG SA
Theo cuốn Lịch Sử Trung Hoa Thời Trung Cổ do Hàn Lâm
Viện Trung cộng xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, trong bài “Nghiên Cứu về Lịch Sử
và Địa Lý” học giả Hsieh Chiao-Min nhận định vềcuộc Thám Hiểm của Trung Hoa
tại Đại Dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát
triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại
dương. Thản hoặc nhà cầm quyền Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm
đại dương đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước Công
Nguyên, cũng như tại Đông Nam Á, Ấn Độ và Phi Châu trong thế kỷ 15. Điểm rõ
nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có,
những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài
lịch sử (từ nhà Tần thế kỷ thứ 3 Trước C. N. đến nhà Thanh từ thế kỷ 17 đến thế
kỷ 20). Chiao-Min
Hsieh. Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287).
Trong
thời Đế Quốc Thứ Nhất đời Tần Hán (First Empire), những cuộc thám hiểm đại
dương tại Đông Trung Hoa Hải và Biển Nhật Bản không phải để chinh phục
vùng Biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đặc biệt
trong thế kỷ 15, từ đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc), Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hòa đã
7 lần thám hiểm Tây Dương (Ấn Độ Dương). Và trong 28 năm, từ 1405 đến 1433, đã
viếng thăm 37 quốc gia duyên hải đến Ba Tư, Biển Hồng Hải phía tây bắc, Đông
Phi Châu phía cực tây và Đài Loan phía cực đông. Những cuộc thám
hiểm này chỉ đi ngang qua Biển Nam Hoa nhằm khai phá Ấn Độ
Dương. Lịch sử Trung Hoa cũng phê phán những cuộc thám hiểm đại
dương đời nhà Minh vì đã làm kiệt quệ kinh tế đất nước. (The large
exploring expeditions that were to cross the South China Sea
and explore the Indian Ocean were criticized by the court as
poor to (an impoverishment of) the country. Chiao-Min Hsieh, Ibid,
p. 290-291).
Những tài
liệu lịch sử nêu trên đã được phổ biến tại Đại Hội Quốc Tế về Sử Địa Trung Hoa
Kỳ I tại Đài Bắc năm 1968 và đã được đăng trong cuốn Lịch Sử Trung Hoa Thời
Trung Cổ năm 1978.
Như vậy
theo chính sử Trung Hoa suốt từ thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 15, dưới 3
triều đại Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế và Minh Thành Tổ không có tài
liệu nào cho biết có các lực lượng hải quân Trung Hoa đi tuần thám để hành sử
và công bố chủ quyền tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á.
Theo Tân
Từ Điển Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 “Biển Nam
Hải là vùng biển ven bờ chạy từ Eo Biển Đài Loan tới Quảng Đông” (The
Southern Sea stretches from the Taiwan Strait to Kwantung. A New
Practical Chinese-English Dictionary, Hongkong 1971, p. 121)
Theo Từ
Điển Từ Hải xuất bản năm 1948 thì “Biển Nam Hoa thuộc chủ
quyền chung của 5 quốc gia là Trung Hoa, Pháp (Việt Nam), Anh(Mã Lai), Mỹ (Phi
Luật Tân) và Nhật ( Đài Loan). Do đó Biển Nam Hải (Southern Sea)
không phải là Biển Nam Hoa (South China Sea).
Sau này Trung
cộng lợi dụng danh xưng để mạo nhận rằng Biển Nam Hải của tỉnh Quảng
Đông chính là Biển Nam Hoa của Trung Hoa.
Từ thế kỷ
15, các nhà thám hiểm đại dương và các nhà doanh thương Âu, Á như Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, Ả Rập khi vượt Đại Tây Dương đến vùng
biển tiếp giáp Ấn Độ, muốn cho tiện họ gọi vùng biển này là Ấn Độ Dương. Và
khi qua Eo Biển Mã Lai đến vùng biển tiếp giáp Trung Hoa họ
cũng tiện thể gọi vùng biển này là Biển Nam Hoa (ngoại nhân xưng Nam Trung Hoa
Hải).
Sự trùng
điệp danh xưng này của các nhà địa lý Tây Phương chỉ là sự ghi nhận một tập
quán về ngôn ngữ hàng hải. Như vậy tên Biển Nam Hoa cũng như Ấn Độ Dương không
có tác dụng công nhận chủ quyền của Trung Hoa và Ấn Độ tại các
vùng biển này. Nó chỉ ghi nhận vị trí của Ấn Độ Dương là vùng
tiếp giáp Ấn Độ, cũng như Biển Nam Hoa là vùng tiếp giáp miền Nam Trung Hoa. Vả
lại, về diện tích, Biển Nam Hải (hay Biển Nam) chỉ rộng chừng 25km, trong khi
Biển Nam Hoa chạy từ bờ biển Quảng Đông tới bờ biển Nam Dương và rộng tới 2000
km.
Trong
những chuyến hải hành Trịnh Hòa chỉ dừng chân tại hải cảng Chaban (Trà Bàn hay
Đồ Bàn) thủ phủ Chiêm Thành. Theo Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học
Harvard, mục đích những chuyến công du này không phải để
cướp bóc hay thôn tính lãnh thổ mà chỉ nhằm thiết lập bang
giao với hàng chục quốc gia duyên hải tại Ấn Độ Dương.
(The
Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or
colonizing ventures. John King Fairbank, China, a New History,
Harvard University Press 1992, p. 138).
Như vậy,
theo chính sử Trung Hoa, từ các đời Tần Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam
Bắc Triều, Tùy Đường, Ngũ Đại, Tống Nguyên, Minh Thanh, sử sách không ghi chép
việc hải quân Trung Hoa đi tuần thám Biển Đông Hải để chiếm hữu các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa đồng thời công bố và hành sử chủ quyền tại các quần đảo
này.
Năm 1075, dưới đời vua Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân
vượt biên vây đánh Châu Khâm, Châu Liêm tại Quảng Đông và Châu Ung tại Quảng
Tây. Qua năm sau nhà Tống đem quân sang báo thù. Nhưng một lần nữa lại bị Lý
Thường Kiệt đánh bại trên sông Như Nguyệt hay Sông Cầu (Bắc Ninh).
Sau 3 lần
dụng võ thất bại, do trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần
Tông phải theo chính sách “Trọng Võ Ái Nhân” (thận trọng việc võ bị,
thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng), và đã thừa nhận nền độc
lập của Đại Việt.
Thời Đế Quốc Nguyên Mông.
Qua thế
kỷ 13 Trung cộng bị Mông Cổ thôn tính trong gần 90 năm (1280-1368). Trước đó
trong chiến dịch Tây Tiến, Thành Cát Tư Hãn đã chiếm giữ vùng
Trung Á 6 ngàn dặm đến Hung Gia Lợi và nước Nga tại Bắc Âu và Ba Tư tại Nam Á.
Rồi quay về chiếm nước Tây Hạ, nước Kim và Triều Tiên. Trước đó, năm 1257 quân
Mông Cổ đánh Vân Nam và tràn sang Việt Nam. Tuy nhiên, với quân dân một lòng,
nhà Trần đã đánh tan quân Mông Cổ tại Đông Bộ Đầu. Đây là chiến thắng đầu tiên
của Việt Nam đối với nhà Nguyên.
27 năm
sau, năm 1284, con Nguyên Chủ Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan kéo 50 vạn quân sang
báo thù.
Trong Hội
Nghị Diên Hồng các bô lão đồng thanh xin đánh. Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng
Đạo, chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12-1284 đến tháng 6-1285, quân Đại Việt
đã đánh đuổi quân Nguyên ra ngoài bờ cõi. Toa Đô bị bắn chết, Ô Mã Nhi bị đuổi
quá gấp phải một mình lẻn xuống thuyền con chạy trốn, và Thoát Hoan phải chui
ống đồng lên xe chạy thoát về Tầu.
Thời gian
này Hốt Tất Liệt đã có kế hoạch thôn tính Quần Đảo Phù Tang. Nay quân Thoát
Hoan đại bại kéo về, Nguyên Chủ phải đình chỉ kế hoạch Đông Tiến. Và hai năm
sau, đầu năm 1287, Thoát Hoan lại tập trung lực lượng kéo 30 vạn quân sang Đại
Việt để báo thù lần thứ hai.
Tuy
nhiên, cũng như lần trước, chỉ trong vòng một năm quân Mông Cổ đã mua lấy thất
bại. Ô Mã Nhi lần này bị bắt sống tại Bạch Đằng Giang. Sau đó quân Trần Hưng
Đạo đại phá quân Nguyên khiến Thoát Hoan phải thu tàn binh tháo chạy về Yên
Kinh. Và tại Thăng Long, vua Trần Nhân Tông đem các tướng nhà Nguyên bị bắt như
Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm lễ hiến phù tại Chiêu Lăng. Đây là một vinh dự cho Đại
Việt đã 3 lần đơn độc phá vỡ kế hoạch Nam Tiến (tại Việt Nam), đồng thời ngăn
cản cuộc Đông Tiến (tại Nhật Bản) của đoàn quân mệnh danh là “bách chiến bách
thắng” từ đời Thành Cát Tư Hãn.
Và sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dòm ngó đến Việt Nam cả trên
lục địa lẫn ngoài hải phận. Trong cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa” Marwyn S. Samuels cũng xác
nhận rằng: “Trong suốt thế kỷ 14, các đội hải thuyền hùng mạnh của Nhà
Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa, các hải đảo Hoàng
Sa và Trường Sa không bị chiếm đóng và cũng không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung
cộng” (Marwyn S. Samuels: Contest for the South China Sea, Methuen, London,
1982).
“Trung
Hoa không bao giờ là một cường quốc đại dương. Dân tộc Trung Hoa trong 4 ngàn
năm chỉ sống về ruộng đất với những tập tục và quan niệm sống của nhà nông” (James
Fairgrieve, Geography and World Power, London, 1921).
“Với các
đặc tính của một dân tộc lục địa, Trung Hoa không phải là một cường quốc đại
dương. Chú tâm của họ hướng về đất liền tại miền Trung Á hơn là ra hải ngoại.
Do đó các kiến thức của họ về biển cả và duyên hải thật quá thô sơ”. (E. B.
Elridge, The Background of Eastern Sea Power, Melbourne, 1948).
Đời Nhà Minh
Trong
cuốn “Lịch Sử Trung Hoa Thời Trung Cổ” ghi trên, học giả Hsieh
Chiao-Min ghi nhận rằng, theo chính sử, từ các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước C.
N., người Trung Hoa chỉ đi tới Biển Nhật Bản và Đông Trung Hoa Hải. Họ không
nghĩ có đất liền bên kia Thái Bình Dương. Do đó mọi cuộc thám hiểm đều hướng về
Tây Dương.
Mãi đến
thế kỷ 15 dưới đời Minh Thành Tổ (1403-1424) mới có những vụ
thám hiểm đại dương từ Đông Nam Á đến Ấn Độ và Đông Phi.
Điều đáng
lưu ý là về 7 chuyến công du tại trên 30 quốc gia trong 28 năm (từ 1405 đến
1433), chính sử Trung Hoa cũng ghi rõ phái bộ Trịnh Hòa chỉ đi qua Biển
Nam Hoa nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương. Như vậy không có chuyện phái bộ
Trịnh Hòa đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chiếm hữu và hành sử chủ quyền.
Theo chính sử do các sử gia Trung cộng trên thế giới hội nghị tại Đài Bắc
năm 1968 và biên soạn năm 1978 thì trong các đời Tần Hán, Tùy Đường, Tống Nguyên và
Minh Thanh, không thấy một dòng chữ nào đề cập việc Trung cộng đem quân chiếm
cứ các hải đảo tại Biển Đông Hải. Các chuyến hải hành chỉ vụ vào việc bành
trướng thế lực ngoại giao và phát triển giao thương giữa Trung Hoa với các quốc
gia Á Phi tại Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập.
Riêng tại
Đại Việt, Giáo Sư J.K. Fairbank cũng nói về cuộc xâm lăng khởi sự năm 1407 và
kết thúc năm 1427. Kết cuộc, với những tổn thất đáng kể, nhà Minh phải trả chủ
quyền độc lập cho Việt Nam năm 1428.
Dưới đời Nhà Thanh, trong ba thế kỷ từ 17 đến 20:
a)
Theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ năm
1894 đời vua Quang Tự thì đến cuối thế kỷ 19 “lãnh thổ của
Trung Hoa chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” (Hải Nam cách
Hoàng Sa 150 hải lý (275 km) về phía đông nam).
b)
Qua thế kỷ 20 sự kiện này được xác nhận trong cuốn Trung Hoa
Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 (cũng đời vua Quang
Tự) với đoạn như sau: “Điểm cực Nam của Trung Hoa là bờ biển Châu Nhai thuộc
quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18”.
c)
Trong bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do Chính Phủ ấn hành
cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, và không thấy ghi các danh
xưng Hán hóa Tây Sa, Nam Sa.
d)
Trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương
Bỉnh Nam (1820-1842) viết: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng
Sa) là giải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt
ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy có sự nhìn nhận rằng quần đảo này là
biên thùy hải phận của Việt Nam.
e)
Theo học giả Marwyn S. Samuels trong cuốn Tranh
Chấp tại Biển Nam Hoa nói ở trên“không có bằng chứng nào cho thấy nhà
Thanh đã chiếm hữu và sát nhập Hoàng Sa Trường Sa vào lãnh thổ Trung cộng”.
f)
Trong tập Địa Dư Chí Tỉnh Quảng Đông được
vua Ung Chính duyệt phê năm 1731, không thấy ghi hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ Trung Hoa.
g)
Trong bộ “Đại Thanh Nhất Thống Chí” do Quốc Sử Quán Trung Hoa biên
soạn năm 1842 với lời tựa của vua Đạo Quang không có chỗ nào ghi Thiên
Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa(quần đảo Hoàng Sa) thuộc hải phận tỉnh
Quảng Đông.
h)
Đặc biệt là trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần
Luân Quýnh (năm 1744), vùng hải phận của Việt Nam tại Biển Đông Hải được ghi
bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương.
g) Đời Hồng Đức lưu trữ tại Đông Dương Văn Khố
Tokyo, tới hậu bán thế kỷ 15 dưới triều vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức nguyên
niên (1470), Chiêm Thành đã là lãnh thổ của Đại Việt gồm có lục địa, hải phận
và các hải đảo.
Đời Nhà Nguyên
Trong thế
kỷ 13 Mông Cổ bị Đại Việt 3 lần đánh bại trong 3 thập
niên,vào những năm 1257, 1285 và 1287. Sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên
không còn dòm ngó Việt Nam từ trên lục địa đến ngoài hải phận. Và
trong các thế kỷ 13 và 14, theo chính sử, quân Mông Cổ không xâm chiếm các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo
cuốn Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa của Marwyn Samuels “trong
thế kỷ 14 các đội hải thuyền hùng mạnh của nhà Nguyên có đi tuần
tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị
chiếm đóng và không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung cộng”Cũng như các
sách sử địa đời Nhà Thanh, cuốn Nguyên Sử Địa Lý Chí đã viết
như sau: “Cương vực Trung Hoa đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải
Nam, và về phía Bắc không quá Sa Mạc Gobi”.
Đời Nhà Tống
a)
Như trong thế kỷ 13 đời Nhà Nguyên, trong hai thế kỷ thứ 10 và 11 Việt
Nam cũng đã 3 lần đánh thắng Nhà Tống trong những năm 981, 1075 và 1076.
b) Sau
3 phen thất trận, theo trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần
Tông đã phải theo chính sách Trọng Võ Ái Nhân (thận trọng việc
võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng). Và đã thừa nhận
nền độc lập của Đại Việt.
c)
Sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát nhìn nhận rằng quần đảo
Hoàng Sa mà tác giả gọi là Thiên Lý Trường Sa (Bãi Cát Dài
Ngàn Dặm) là đất của nước phiên thuộc An Nam,
d)
Trong đời Nam Tống cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi
cũng xác nhận: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”.
Từ đời Tần Hán thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 20 đời Nhà Thanh,
không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu nào ghi rằng Biển Đông
Hải với Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Hoa.
Theo lịch
sử Trung cộng, Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Nhà
Tống gọi vùng biển Hoàng SaTrường Sa là Giao Chỉ Dương.
Ngày nay,
với “tứ hiện đại hóa”, Trung cộng đã biểu lộ tính hiếu chiến trong chính sách
bành trướng cả về kinh tế lẫn chủ quyền lãnh thổ. Quân đội Trung
cộng đang tăng cường sức mạnh để hy vọng có ngày đủ phương tiện nhằm lọai trừ
hay phòng ngừa sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Á Châu Thái Bình Dương. Sau đó, theo
truyền thống và tự hào lịch sử, họ sẽ bước vào giai đoạn đối đầu với phe Dân
Chủ Tây Phương. Họ kỳ vọng rằng với quyết tâm và phát triển kinh tế, hệ thống Trung
cộng sẽ nổi bật trên thế giới khiến các quốc gia khác phải khâm phục và mặc
nhiên chấp thuận để họ thôn tính các vùng lãnh thổ và hải đảo tại Á Châu Thái
Bình Dương.
Ngày nay, cùng với người Việt trong và ngoài nước, chúng ta
thách thức Bắc Kinh công khai đưa vụ tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải
phận tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á ra trước các cơ
quan tài phán, trọng tài hay tham vấn theo thủ tục quốc tế.(Judicial litigation,
arbitration or consultation)
Tại vùng
Biển Đông Nam Á, rập theo tham vọng của Đế Quốc La Mã hồi thế
kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra
thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung cộng (mà dân gian gọi
là Lưỡi Bò). Họ coi đó là mục tiêu chiến lược từ sau 1951. Nhất là
từ 1982 khi Trung cộng ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Tuy nhiên
thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái Điều 8 Công Ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The Hague.
Tòa Án Quốc Tế định nghĩa “biển lịch sử là nội hải”.
Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định
trongĐiều 8 như sau:
“Ngoại
trừ trường hợp các quốc gia quần đảo [như Phi Luật Tân hay Nhật Bản] Biển
Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền, về
phía bên trong đường cơ sở (ranh giới) của biển lãnh thổ. The
International Court of Justice has defined historic waters as “internal
waters”; “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea
form part of the internal waters of the State” (Art. 8 UNCLOS 1982).
Năm 1988,
lần đầu tiên hải quân Trung cộng tấn công võ trang các đảo Trường Sa,
và đã chiếm Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng một số đá chìm và bãi ngầm.
Những vụ
chiếm cứ này không có tính hòa bình mà do xâm lăng võ trang nên không được luật
pháp và tòa án bảo vệ. Vì nó đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Cũng
như thời Thế Chiến II, Nhật Bản đã chiếm cứ Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực
nên không có tư cách chủ quyền hợp pháp.
Cho đến
ngày 1-9-1951 Trung cộng mới lên tiếng đòi “chủ quyền lịch sử “ tại Hoàng Sa và
Trường Sa.
Tuy
nhiên, theo cuốn Trung Hoa Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản
năm 1906 đời vua Quang Tự Nhà Thanh “Điểm cực Nam của Trung
Hoa là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18”.
Theo
Minh Sử, đời vua Lê Thánh Tông từ thế kỷ 15 (năm 1470), các
đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành
đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt.
Theo Nguyên Sử “Cương vực Trung Hoa đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải
Nam, và về phía Bắc không quá Sa Mạc Gobi”.
Do đó, về công pháp quốc tế, thuyết Biển Lịch Sử không
còn là một vấn đề tranh nghị tại các Tòa Án Trọng Tài hay các Tòa Án Luật Biển.
Vì thuyết này đi trái với Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The
Hague, và đã bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ
trong Điều 8.
Vì biết rõ điều đó nên Trung cộng không dám đưa vụ
tranh chấp hải phận và các hải đảo tại Biển Đông Nam Á ra trước Tòa Án Quốc Tế,
Tòa Án Luật Biển hay Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp Quốc.
Theo chuyên gia quốc tế Mark J. Valentia Thuyết Biển
Lịch Sử của Bắc Kinh càng ngày càng bị chê cười là lố bịch (criticized and
rediculed)