„Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết thì những
thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời gian
dài sống tạm trú ở những quốc gia Đông Nam Á – cũng mang số phận y như vậy.“
Tưởng Năng Tiến
Trang Câu Lạc Bộ Kỹ Thuật Việt Kiều đăng tải một
bài viết (“Cuộc Di Cư Lớn Nhất Của Cá Hồi Đỏ Trong 100 Năm”) khá thú vị. Xin
ghi lại toàn văn:
Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh British Columbia của
Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên: cuộc di cư
khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế kỷ trở lại đây.
Dự kiến, khoảng từ 6-8 triệu con cá hồi đỏ sẽ di cư
tới sông Adams thuộc khu vực Shuswap của tỉnh British Columbia trong năm nay và
đây được xem là cuộc di cư lớn nhất của cá hồi đỏ kể từ năm 1913.
Cá hồi đỏ là một trong các loại cá sống ở nước mặn
và sinh sản ở nước ngọt. Cá hồi đỏ thường đẻ trứng trong vùng nước nông trên
sông Adams vào tháng 10 hàng năm. Sau khi phát triển trong vùng nước ngọt khoảng
1 năm, những con cá nhỏ nở ra từ trứng sẽ di cư ra biển và sống ở đó khoảng 3
năm rồi quay trở lại chính nơi chúng được sinh ra.
Loài cá hồi khi di chuyển định hướng bằng mùi. Mỗi
con cá nhớ đều nhớ mùi của dòng sông nơi nó sinh ra. Khi di chuyển qua đại
dương trở về con sông sinh sản, con cá sẽ tìm thấy đường của nó một cách hoàn
toàn bản năng vì mùi vị thân quen càng gần càng trở nên rõ rệt.
Khi vào lại vùng nước ngọt, cá hồi sẽ không ăn và
chuyển sang màu đỏ sáng.
Cá hồi có khả năng bơi ngược sông, vượt qua các dòng
nước chảy xiết trong hành trình dài gần 500km từ biển tới sông Adams. Sau khi
đã trở về nhà, chúng đẻ trứng rồi cuối cùng kiệt sức và chết. Trứng sau đó nở
ra con non và con non lại hành trình ra biển.
Hiện tượng di cư bí ẩn của cá hồi luôn thu hút sự
quan tâm của du khách đến với sông Adams. Tại công viên Roderick Haig-Brown cạnh
sông Adams - địa điểm quan sát cá hồi đẻ trứng tốt nhất, bầu không khí tại khu
vực vốn yên tĩnh này đã trở nên nhộn nhịp giống lễ hội đường phố.
Brian Riddell, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Quỹ
cá hồi Thái Bình Dương, gọi cuộc di cư khổng lồ lần này là “điều bất ngờ thú vị”
khi số cá hồi đỏ di cư nhiều gấp đôi so với dự đoán trước đó.
Cá hồi Dại Tây
Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể đi đi về về từ sông ra biển và
ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao núng, dù khoảng cách phải vượt
qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó khăn và chướng ngại.
Bản năng về nguồn
của cá hồi, tất nhiên, đã được loài người ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng
người Nhật, dân tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị
trường mỗi năm cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.
Xét về số lượng,
mức sản xuất của người Nhật không hơn người Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ.
Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi mới là điều cần cần phải được lưu
tâm và học hỏi.
Họ thiết lập nhà
máy đóng hộp cá hồi ngay ở ven sông. Cũng chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ
trứng, thụ tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến mười ngàn chú cá hồi con ra đời.
Sau đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại dương, để bắt đầu cuộc đời “tha
phương cầu thực.”
Tùy theo từng loại,
cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng đến năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” đuợc từ
trường của lòng đất và sự chuyển động của hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ.
Khi vào gần đến bờ, giác quan đặc biệt của loài cá này giúp chúng nhớ được đúng
hương vị quê nhà – tức sông xưa bến cũ – và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến
tận nơi sinh nở.
Người ta đặt sẵn
nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp cho cá hồi dễ dàng và mau chóng vào đến nhà
máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra một loại chướng ngại vật giả khiến chúng phải phóng
lên cao và khi rơi xuống thì rớt ngay vào một mạng lưới di động. Màng luới này
chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá từ sông vào…hộp!
Nói tóm lại là
người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu “đem con bỏ chợ,” để biển cả nuôi
nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ cho cá vào nhà máy để đóng hộp,
và mang bán.
Cách họ kiếm tiền
ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có kẻ bắt chiếc. Chính phủ Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (tên kêu gọn thường dùng là Việt Cộng) cũng học
theo cách làm ăn không vốn gần như vậy. Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người
để kinh doanh, thay cá.
Từ năm 1978 cho
đế năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất
là vài triệu người dân ra biển. Người ta ước tính rằng trên bước đường lưu lạc
cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất cũng có một con bỏ mạng. Nó trở
thành mồi săn cho loài người, cho loài chim, hoặc những loài cá khác. Tương tự,
trong số mấy triệu người Việt phiêu lưu vào biển cả – tối thiểu – cũng phải một
phần ba đã vong mạng.
Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một
cách lạnh lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền
bè của họ thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước
bao la cho đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ
lương thực (cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.
Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến
thành cá hồi (theo tinh thần của Nghị Quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội.
Đám dân “trôi sông lạc chợ” này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài,
cho đến khi tắt thở, bằng nhiều cách.
Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi
chết thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã
có thời gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Đông Nam Á – cũng mang số phận y
như vậy. Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa.
Riêng với những thuyền nhân ở Hồng Kông – khi phần đất này còn thuộc Anh – Anh
Quốc đã thoả thuận trả sáu trăm hai chục Mỹ Kim mỗi đầu nguời để Hà Nội chịu nhận
họ trở về, cùng với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay ngược đãi !
Số người Việt may mắn hơn, hiện đang
phiêu bạt tứ tán khắp bốn phương trời, có thể được coi như là cá hồi Đại Tây
Dương –
giống cá có khả năng đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những
kẻ này vẫn tiếp tục kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để
dành tiền, rồi hàng năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt Kiều về
thăm quê nhà chắc chắn đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu trăm Mỹ
Kim mà có thể là đến sáu ngàn Đô La, hay nhiều hơn nữa.
“Lượng kiều hối nhiều khả năng đạt 12 tỷ USD năm
2014,” theo như tin loan của Đài Tiếng Nói Việt Nam – nghe được vào
hôm 30 tháng 11 năm 2014. Cùng thời điểm này, Nguyễn Hoàng Minh, (Phó Giám đốc NHNN – chi nhánh TP Sài Gòn) cho
biết: “Năm 2014
Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong 10 nước nhận được kiều hối nhiều nhất trên thế
giới.”
Hà Nội có lý do để
hãnh diện về thành quả này – thành quả kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu
– về kỹ nghệ xuất và nhập cảng người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền
bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi nuớc những con nguời cùng quẫn và sôi xục bất
mãn, rồi “thu về” những Việt kiều yêu nuớc và giàu sang.
Thiệt khoẻ!
Tưởng Năng Tiến