OBOR : Mô hình « toàn cầu hóa » kiểu Trung cộng
Chủ
tịch Trung cộng Tập Cận Bình đọc thông cáo chung kết thúc thượng đỉnh "Con
Đường Tơ Lụa Mới OBOR", Bắc Kinh, ngày 15/05/2017.REUTERS/Jason Lee
Trong hai ngày 14-15/05/2017, Thượng đỉnh « Con Đường
Tơ Lụa Mới - OBOR (One Belt, One Road) » đã diễn ra tại Bắc Kinh. Le Monde nhận xét : « Tại Bắc Kinh, Tập Cận Bình trải thảm ‘những con đường tơ lụa’ ».
Trong bài diễn văn khai mạc hôm Chủ Nhật, chủ tịch Trung cộng khẳng định đây là
một « dự án thế kỷ » và kêu gọi « xây dựng một khối cộng
đồng lớn cùng chia sẻ các lợi ích ».
Thế nhưng, theo quan điểm của Les Echos, « Trung cộng đang tìm
cách áp đặt quan điểm của mình về toàn cầu hóa ». Bởi vì, theo nhận xét của nhật báo, ngoài những
lợi ích kinh tế từ Con Đường Tơ Lụa Mới này, thì Bắc Kinh dự định sử dụng dự án
trên như là một bàn đạp trên bình diện địa chính trị cho phép Trung cộng mở rộng
tầm ảnh hưởng và gây được nhiều áp lực hơn trong việc điều hành thế giới.
Les Echos trích phân tích của ông Christian Deseglise, giáo sư đại học
Columbia và chuyên gia về thị trường mới trỗi dậy thuộc ngân hàng HSBC, cho rằng : « Kể từ giờ Trung cộng muốn có một vai trò lãnh đạo trên chính
trường quốc tế. Với dự án Con Đường Tơ Lụa Mới OBOR, Trung cộng có những phản ứng
trước những chỉ trích về hiện tượng toàn cầu hóa và việc từ bỏ hệ thống Bretton
Woods, một hệ thống mà ở đó các nước mới trỗi dậy cảm thấy chưa được đại diện một
cách thỏa đáng ».
Hệ thống Bretton Woods này được ký kết vào năm 1944,
tại một hội nghị diễn ra tại Bretton Woods, New Hampshire, quy tụ hơn 730 đại
biểu đến từ 44 lãnh đạo quốc gia. Hệ thống này thống nhất mức tỷ giá cố định
cho các đồng tiền chính và cho phép ngân hàng trung ương được can thiệp vào thị
trường tiền tệ. Chế độ Bretton Woods quy định một ounce vàng có giá 35 đôla Mỹ.
Hệ thống Bretton Woods kéo dài từ năm 1944 đến năm 1971.
Như để thuyết phục các đối tác Bắc Kinh đã cam kết một
gói hỗ trợ về mặt tài chính trị giá 113 tỷ euro để phát triển nhiều công trình
hạ tầng ở những nơi dự án OBOR đi qua (từ cầu cảng, đường bộ, cho đến đường sắt…),
vốn tập trung đến hơn 60% dân số thế giới và chiếm đến 1/3 tổng thu nhập toàn cầu.
Tuy biết rằng đó là « một tham vọng quá khổ »
nhưng đối với Bắc Kinh « dù chỉ là một phần dự án được thực hiện có hiệu
quả, tiến bộ có được cũng sẽ rất là to lớn », như nhận định của ông
Jean-François Di Meglio, chủ tịch Trung Tâm Cố Vấn Asia Centre.
Mặc dù cố sức bảo vệ « một sáng kiến đôi bên
cùng có lợi » dựa trên sự « hợp tác » và đảm bảo mang
lại « hòa bình và thịnh vượng », nhưng chủ tịch Tập Cận Bình vẫn
không dỡ bỏ được mọi sự kháng cự của một số nước. Nhiều
quốc gia láng giềng lo ngại chính sách bành trướng khu vực này của Trung cộng,
nhất là Ấn Độ và Nhật Bản.
Về phần mình, nhiều nước châu Âu cũng đã từ chối ký
vào bản thông cáo chung do Trung cộng soạn thảo khi cho rằng bản thông cáo này
chưa đề cập đầy đủ những mối bận tâm của châu Âu trên phương diện minh bạch hóa
thị trường công hay những chuẩn mực về xã hội và môi trường.
Tuy nhiên, về điểm này, Le Figaro có bài viết của nhà báo Renaud Girard chỉ trích Liên Hiệp Châu Âu
đang thiếu một chiến lược trước đà tiến của Trung cộng. Tác giả lưu ý là
trên phương diện thương mại, Hoa Kỳ đã có một hình thức chiến lược riêng của
mình là theo chủ nghĩa cơ hội. Nghĩa là tùy theo từng lợi ích tức thì mà Hoa Kỳ
có thể luân phiên thay đổi mầu áo : tự do trao đổi mậu dịch hay bảo hộ mậu dịch.
Minh Anh (FRI)
Con Đường Tơ Lụa Mới
Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình phát biểu
trong bữa tiệc chào mừng lãnh đạo các nước tham dự Diễn đàn Vành Đai và Con Đường
tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017. AFP
photo
Ngay từ năm 1999, vào thời Chủ tịch Giang Trạch Dân đã
có đề xuất về Con Đường Tơ Lụa. Nó xuất phát từ thực tế nghiệt ngã về địa dư của Trung cộng.
Tại hướng Đông là vùng duyên hải có các tỉnh tương đối trù phú và tăng
trưởng mạnh sau khi mở ra buôn bán với bên ngoài. Về hướng Tây và hướng Bắc
hoang vu, là các tỉnh nghèo nàn lạc hậu bị khóa trong lục địa, khó thông thương
ra ngoài mà lại là nơi tập trung các dị tộc thiểu số.
Đây là nan đề ngàn năm của Trung cộng
đang trở thành sức ép chính trị. Vì vậy các nhà lãnh đạo
Trung cộng hiện có một ưu tiên cấp bách, đó là tái phân lợi tức từ các tỉnh
tương đối trù phú tại vùng duyên hải ở miền Đông vào các địa phương nghèo đói
và lạc hậu ở miền Tây không tiếp cận được với thế giới.
Khu vực miền Tây này chiếm hơn 70% diện tích lãnh thổ,
bao trùm lên các tỉnh Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Vân Nam, năm đặc
khu tự trị của các sắc dân thiểu số, là Quảng Tây, Tây Tạng, Tân Cương, Nội
Mông, Ninh Hạ, cùng một thành phố thuộc quyền quản lý của trung ương là Trùng
Khánh. Tập Cận Bình muốn mở ra các “tẩu lang kinh tế” chính là để khu vực hoang
vu bát ngát này có thể buôn bán với bên ngoài. Vùng bát ngát này có bốn tỷ 400
triệu dân, là 62% dân số địa cầu, mà chỉ sản xuất có 30% sản lượng toàn cầu
thôi. Hai con số ấy, 62% dân số và 30% sản lượng, cho thấy sự nghèo nàn của khu
vực.
Chiến lược “Tây Tiến” của Bắc Kinh đã được Thủ tướng
Chu Dung Cơ chỉ đạo từ năm 2000 nhằm phát triển các vùng nghèo khốn tại miền
Tây để tránh dị biệt quá lớn về lợi tức và nhận thức.
Ngoài ra hiện nay cũng như trong tương lai xa xôi,
vùng đất hoang vu ấy có quá nhiều tranh chấp và bất ổn có thể gây loạn cho Trung
cộng. Vấn đề an ninh của cả một vùng rộng lớn đang có khủng bố Hồi giáo cực
đoan và sự nghi kỵ về sự can thiệp của ngoại bang là một vấn đề lớn.
Tóm lại, yêu cầu chính của
Con Đường Tơ Lụa chính là an ninh và kinh tế cho nội tình Trung cộng.
Trong lịch sử, chưa khi nào kinh tế Trung
cộng lại cần buôn bán với thế giới như hiện nay. Ngoại thương
hay xuất nhập khẩu là lẽ sống của họ, mà 90% hàng hóa lại được chở qua biển vì
là phương tiện rẻ nhất. Nhìn từ Bắc Kinh ra biển, với tâm trạng của một kẻ từng
bị hạm đội xứ khác khuất phục, họ thấy ba mặt biển cận duyên là biển Hoàng hải,
biển Hoa Đông và biển Hoa Nam lại bị ngăn bởi các quần đảo mà họ gọi là “Đệ Nhất
Đảo Liên”, như chuỗi xích kéo dài từ Nhật Bản, Đài Loan tới Phi Luật tân và Nam
Dương.
Nhiều quốc gia quần đảo này lại là đồng minh của Mỹ.
Luồng giao dịch hàng hóa từ các hải cảng của Trung cộng tại vùng duyên hải với
thế giới phải qua nhiều eo biển, thí dụ như eo biển Malacca, hiện nay vẫn do một
siêu cường bảo vệ. Khi thấy an ninh kinh tế của mình lại nằm trong tay của Hoa
Kỳ, Bắc Kinh sợ là có ngày bị Mỹ xiết họng! Vì vậy, họ mới có nhiều động thái
đáng ngại.
Thứ nhất là họ cưỡng đoạt quần đảo hay bãi cạn của
các lân bang nghèo yếu hơn; thứ hai là quân sự hóa các bãi cạn đã chiếm và biến
thành đảo nhân tạo; thứ ba là ly gián các nước trong Hiệp hội ASEAN theo kiểu bẻ
đũa từng chiếc để nhóm kinh tế Đông Nam Á này không thể thống nhất hành động chống
cự; thứ tư là mua chuộc hai thành viên của ASEAN đang có tranh chấp chủ quyền
biển đảo với họ tại Đông Nam Á, là Việt Nam và Phi Luật Tân; thứ năm là tránh
gây hấn trực tiếp với Hoa Kỳ. Dù vậy, Bắc Kinh vẫn chưa yên lòng nên tìm cách
tiến thẳng ra Ấn Độ Dương mà tránh các eo biển Đông Nam Á. Đấy cũng là mục tiêu
của “Tẩu lang Kinh tế Đông Dương” với bảy nước Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Mã
Lai Á, Brunei và Nam Dương và của “Tẩu lang Kinh tế Bangladesh, Trung cộng, Ấn
Độ, Miến Điện”.
Việc thực hiện dự án Con
Đường Tơ Lụa
Có nhiều vấn đề:
Chuyện tiền bạc. Khi công bố kế hoạch bốn năm về trước,
Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết kinh phí dự trù là năm
ngàn tỷ đô la, dùng trong bao lâu thì chưa rõ. Ngân hàng Hongkong
Shanghai của Anh thì tính ra nhu cầu từ bốn đến sáu ngàn tỷ trong 15 năm, và
Ngân hàng Phát triển Á châu ADB ước lượng rằng là từ nay đến năm 2030 các nước
Châu Á cần 26 ngàn tỷ cho các dự án xây dựng hạ tầng! Tính
đến nay thì các ngân hàng có vốn của Trung cộng mới chỉ gạn được khoảng ba trăm
tỷ thôi và một số dự án đầu tiên đã lỗ vốn.
Chuyện kế tiếp là trong 65 nước liên hệ đến Con đường
Tơ lụa mới thì chỉ có 20 nguyên thủ tham dự hội nghị tuần qua ở Bắc Kinh với Chủ
tịch Tập Cận Bình, tức là lãnh đạo
của 44 quốc gia vẫn đứng ngoài nghe ngóng mà đấy lại là các nước giàu có.
Các quốc gia Âu châu thì thấy không có bảo đảm tính cách
bình đẳng cho các doanh nghiệp dự thầu vì ai cũng cho là Trung cộng sẽ
tìm cách nâng đỡ doanh nghiệp của mình.
Một số quốc gia cũng nhìn thấy dụng ý của Bắc Kinh
trong kế hoạch này, chẳng hạn như là khi Bắc Kinh không có đủ tiền nên sẽ yêu cầu
các nước dần tìm nguồn tài trợ rẻ tiền để thực hiện dự án và khi ấy sẽ phải sử
dụng đồng Nguyên của Trung cộng.
Các nước trong Hiệp hội ASEAN thì sợ đòn
ly gián của Bắc Kinh.
Riêng Ấn Độ chẳng yên tâm trước ảnh hưởng
lớn mạnh của Trung cộng với Pakistan và đe dọa quyền lợi của
mình tại bang Kashmir
Các tướng lãnh Miến Điện và bà Aung San Suu Kyi thì
thấy bàn tay Bắc Kinh đằng sau các lực lượng thiểu số đòi ly khai tại biên giới
giữa hai nước.
Liên bang Nga có thể ủng hộ sáng kiến của Bắc Kinh nhưng vẫn phải canh chừng quyền lợi của mình tại Trung Á….
Liên bang Nga có thể ủng hộ sáng kiến của Bắc Kinh nhưng vẫn phải canh chừng quyền lợi của mình tại Trung Á….
Cho nên chưa biết Con đường Tơ lụa mới có thành
chăng thì các nước cũng ngại sự xuất hiện của một cường quốc với các dự án kinh
tế khả dĩ chi phối an ninh của họ.
Tóm lược từ bài của Nguyên Lam (RFA) phỏng vấn chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Con
Đường Tơ Lụa Mới