„…Nơi
nào không thể chiếm đoạt được bằng biện pháp hòa bình, Trung Cộng sử dụng vũ
lực và lựa chọn thời cơ thích hợp.
…
…theo
logic sự kiện và những hành động mà Trung Cộng tiến hành gần đây cho thấy, nạn
nhân đầu tiên của chính sách đối ngoại Đại Hán hiển nhiên sẽ là Việt Nam…“
Việt
Nam là mục tiêu hoàn hảo của Trung cộng?
Tờ Topwar của Nga vừa đăng tải bài viết nhận
định: Nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa bá quyền của Bắc Kinh
có thể là Việt Nam.
5 lý do Việt
Nam là mục tiêu hoàn hảo cho Trung cộng
Hiện nay, Trung Cộng
đang đứng trước những vấn đề thường có của siêu cường đang phát triển.
Tất cả những gì dễ dàng chiếm đoạt được, siêu cường này đã sát nhập về tay
mình. Đó là thu hồi Hồng Kông, Macau, đảo trên sông Amur và sông Ussuri,
chiếm đoạt những vùng lãnh thổ Kyrgyzstan, Tajikistan và Kazakhstan.
Nơi nào không thể chiếm
đoạt được bằng biện pháp hòa bình, Trung Cộng sử dụng vũ lực và lựa chọn thời
cơ thích hợp. Điển hình có thể kể đến như sự kiện đánh chiếm trái phép
quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam năm 1974 cũng như một số đảo Trường
Sa cũng thuộc Việt Nam năm 1988.
Chưa kể đến việc sát
nhập Tây Tạng và tham gia vào các cuộc chiến khác, nếu so sánh số lượng thì các
cuộc chiến do Trung Cộng tiến hành chỉ kém Mỹ.
Thủy
quân lục chiến TC.
Phải thẳng thắn thừa
nhận rằng, khi nghiên cứu các cuộc chiến tranh do Trung Cộng tham gia, ngoài số
lượng binh lực vượt trội nhiều lần, Quân đội Trung Cộng chiến đấu cũng không
tồi trên đất liền và rất có kinh nghiệm tác chiến trên biển.
Ở châu Á có thể Hải quân
Trung Cộng chỉ thua sút hơn so với Nhật Bản, nhưng bù lại có số lượng binh khí
kỹ thuật vượt hơn gấp nhiều lần. Đến thời điểm này, những cơ hội xâm
chiếm mở rộng lãnh thổ và vùng ảnh hưởng bằng cưỡng chế hòa bình đã hết.
Bước phát triển tiếp
theo sẽ là đe dọa chiến tranh và chiến tranh với những chi phí khổng lồ.
Tất nhiên, chính quyền Bắc Kinh hiểu rất rõ điều đó và tạm thời đang giới hạn
bằng các hoạt động củng cố quyền lực và tăng cường sức mạnh kiểm soát nội bộ
tại các vùng đất chưa được quản trị chặt chẽ, củng cố và siết lại thiết chế,
xây dựng các khu dân cư hiện đại, hạ tầng cơ sở công nông nghiệp, chế áp chủ
nghĩa ly khai địa phương (trước hết là người Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ cũng như
phong trào đòi dân chủ).
Nhưng những hoạt động ấy
không diễn ra mãi mãi. Tình hình phát triển cho thấy thượng tầng lãnh đạo
Trung Cộng phải lựa chọn giữa chiến tranh ngoài biên ải và nội chiến trong đất
nước mình. Họ sẽ lựa chọn điều gì cho tinh thần Đại Hán, lịch sử hàng
nghìn năm duy trì “Thiên mệnh” Trung Hoa hoàn toàn không quá khó để dự đoán.
Sự ổn định nội bộ là
điều cực kỳ quan trọng đối với một quốc gia khổng lồ như Trung Hoa. Mỗi
tỉnh của đại lục trên thực tế có thể trở thành một quốc gia độc lập, giàu mạnh
với nền kinh tế phát triển. Chỉ riêng một tỉnh Quảng Đông đã có dân số
hơn 100 triệu người với sức mạnh kinh tế không thua kém bất cứ một quốc gia nào
ở Đông Nam Á, ở Tân Cương có trữ lượng tài nguyên khoáng sản vô cùng to
lớn. Các khu vực kinh tế hùng mạnh đó cũng tồn tại và phát triển theo một
nguyên nhân sâu xa: không ai có lợi gì nếu để xảy ra chia rẽ và hỗn loạn.
Khác hơn so với các quốc
gia khác, khi cộng đồng xã hội và giới lãnh đạo theo các nhiệm kỳ lang thang
với những định hướng khác nhau, giới lãnh đạo Trung Cộng hiểu rất rõ và tuyên
truyền sâu rộng cho cộng đồng định hướng phát triển của đất nước và những mục
tiêu cuối cùng của quốc gia. Có những mục tiêu được công khai rõ ràng cụ
thể “giấc mơ Trung Hoa” chẳng hạn và có những mục tiêu được người dân Trung Hoa
hiểu rất rõ ràng nhưng không công bố (có thể chưa đến thời gian công bố).
Các mục tiêu đó có thể là thống trị vùng nước Biển Đông và biển Hoa Đông cùng
với những tài nguyên của nó, đặt mục tiêu thống trị chính trị – quân sự trên
vùng đất Viễn Đông và Siberia của Nga.
Cho đến hiện nay, cả
vùng nước Biển Đông và biển Hoa Đông cũng như vùng đất Viễn Đông của Nga đang
bị ràng buộc về kinh tế với siêu cường “thiên triều” này hơn tất cả các khu vực
kinh tế nào khác trên thế giới. Các lãnh đạo Bắc Kinh hiểu rất rõ các lợi
ích hiện có. Không thống trị được Trường Sa, Trung Cộng không bao giờ có thể là
một siêu cường hàng đầu thế giới do không thể kiểm soát được con đường vận tải
thương mại và quân sự của thế giới, buộc nó phải đi vào các cảng biển đại lục,
chưa đề cập đến giá trị kinh tế của những hòn đảo đó.
Từ lịch sử hàng nghìn
năm và những bài học gần đấy Việt Nam hiểu rất rõ, đất nước này mà số phận có
một láng giềng như vậy sẽ là ứng cử viên số 1 trong số các nạn nhân của chủ
nghĩa bành trường bá quyền và chính trị cường quyền trong khu vực châu Á ngày
nay.
Những đặc điểm của mục
tiêu hoàn hảo đó là:
Thứ nhất: Việt
Nam hoàn toàn không ràng buộc với bất cứ nước nào các thỏa thuận về liên minh
quân sự. Liên xô đã không tồn tại, Nga trên thực tế không phải là một
quốc gia có thể giúp đỡ và ủng hộ hiệu quả do những ràng buộc về kinh tế, những
phức tạp nội bộ, cuộc đối đầu gay gắt với NATO và châu Âu.
Nếu so với Đài Loan và
Phi Luật Tân thì ít nhất các nước này còn có danh tiếng là đồng minh của Mỹ và
Nhật. Xung đột với Việt Nam, nếu tốc độ tiến hành chiến tranh nhanh chóng, thì
tiếng vang trên trường quốc tế không lớn và chỉ có Mỹ, Phi Luật Tân, có thể cả
Nhật Bản lên tiếng phản đối, nhưng đưa ra những giải pháp quyết liệt thi không
một nước nào thực hiện.
Trung
Cộng có thể chọn Việt Nam để tránh những thiệt hại nặng nề.
Thứ hai:
Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam đều có lực lượng hải quân, nhưng lịch sử phát
triển hải quân của Đài Loan và Nhật Bản sớm hơn rất nhiều, có thể gây tổn thất
nặng nề với Trung Cộng. Lực lượng Hải quân Việt Nam phát triển khá muộn,
phương tiện và trang thiết bị đang ở giai đoạn ban đầu của tiến trình hiện đại
hóa, các hoạt động diễn tập hợp đồng tác chiến hiện đại trên biển lớn chưa có
nhiều, đặc biệt với các lực lượng nước ngoài. Sức mạnh Hải quân Việt Nam
chỉ có thể vượt trội hơn so với Phi Luật Tân, nhưng Hải quân Phi được sự hỗ trợ
của Mỹ, ít nhất là về mặt tinh thần và những đe dọa mạnh mẽ từ phía Mỹ.
Thứ ba:
Trong các mục tiêu mà Trung Cộng nhằm đến, thì Đài Loan là đối tượng phải sát
nhập bằng giải pháp hòa bình, Đài Bắc trong tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa
cũng đồng quan điểm với Bắc Kinh, tấn công đánh chiếm quốc đảo này thực tế
không có lợi, không những thế còn có thể khơi mào và thúc đẩy phong trào ly
khai nội địa.
Do đó, kế hoạch đánh
chiếm Đài Loan bằng vũ lực chỉ là “đòn đánh lạc hướng dư luận”. Mục tiêu
nghi binh thứ hai gây sóng gió dư luận là Senkaku Nhật Bản, nhưng đây là mục
tiêu khó nhằn và có thể dẫn đến sự phong tỏa hoàn toàn đại lục.
Trung Cộng sẽ xụp đổ nếu
đẩy Nhật Bản, sau đó là Mỹ vào một cuộc đối đầu thực sự. Mục tiêu các hòn
đảo của Việt Nam dễ dàng hơn cả do bộ máy tuyên truyền của Trung Cộng cũng như
Hoa kiều hoạt động rất mạnh trên trường thế giới, đồng loạt đưa ra các luận
điệu giống nhau cùng với những hoạt động đầu tư mạnh mẽ trên thế giới khiến
cộng động xã hội quốc tế lẫn lộn hoàn toàn về những thực tế đang diễn ra trong
chiến lược “Thiên triều” trên Thái Bình Dương.
Thứ tư:
Trung Cộng và Việt Nam có lịch sử lâu đời về xâm lược và đấu tranh chống xâm
lược. Mặc dù các láng giềng khác cũng từng lâm vào hoàn cảnh như vậy,
nhưng lịch sử với Việt Nam đã được Trung Cộng bóp méo hoàn toàn. Người
dân Trung Hoa hoàn toàn hiểu biết sai lầm về lịch sử, đặc biệt là lịch sử cận
đại và có tâm lý Đại Hán, muốn chinh phục một Việt Nam.
Thứ năm:
Những diễn biến gần đây cho thấy, Trung Cộng muốn thực hiện một đòn “Crimea”
hóa kết hợp với bạo loạn và hỗn độn chính trị nhằm giảm tổn thất tối thiếu cho
chiến lược đánh chiếm quần đảo, thống trị Biển Đông, làm bàn đạp mở rộng ảnh
hưởng sang vùng nước Hoa Đông và vượt ra khỏi eo biển Malacca. Chiến dịch
này được cho là có thể củng cố được tình hình nội bộ trong nước, tăng cường
tình thần dân tộc “Đại Hán” trong quân đội và đại đa số cộng đồng xã hội, giải
thích được khoản ngân sách quốc phòng vượt trội khủng khiếp và đẩy mạnh cuộc
thanh lọc nội bộ, tiêu diệt tham quan.
Như vậy, theo logic sự kiện và những hành động mà
Trung Cộng tiến hành gần đây cho thấy, nạn nhân đầu tiên của chính sách đối
ngoại Đại Hán hiển nhiên sẽ là Việt Nam.
Việt Nam, cũng như tất
cả các nước láng giềng khác của Trung Cộng đều hiểu rất rõ điều này, ngoại trừ
một trường hợp hết sức mong manh là Bắc Kinh phải đối đầu với nguy cơ đe dọa
mới từ trong nước tương tự như “nhà nước Hồi giáo”, rất khó xảy ra do thực tế
khủng bố ở Tân Cương xảy ra với cấp độ rất nhỏ, chưa hình thành một tổ chức
nguy hiểm có trang bị mạnh, an ninh nội địa và cảnh sát Trung Cộng dễ dàng
khống chế và tiêu diệt. Ngay cả nguy cơ khủng bố cũng có thể dẫn đến tình
huống Bắc Kinh sẽ nhẩy vào một cuộc phiên lưu quân sự mới nhằm củng cố tình
hình nội bộ. Có thể nói, tiến trình thôn tính Biển Đông đang được thực
hiện ráo riết với tốc độ cao.
Trung Cộng có thể
gây áp lực cho Việt Nam như thế nào?
Tương quan lực lượng
chênh lệch lớn, Việt Nam mua của Nga 4 chiến hạm Gepard 1166. 1, 2 chiếc
đã được đưa vào vào lực lượng hải quân, 6 tàu ngầm lớp Kilo 636. Việt Nam
cũng đang đặt hàng mua từ Hà Lan 2 chiếc “Sigma” và đóng thêm 2 tàu Sigma
nữa. Thực tế Gerpad và Sigma là những tàu hộ vệ trang bị hỏa tiễn.
Ngoài ra, Việt Nam đang
tăng tốc độ đóng các tàu hộ tống và khinh hạm trang bị hỏa tiễn dự án 1241 với
số lượng khoảng 30 chiếc. Lực lượng dự bị động viên có thể tính đến các tàu
Cảnh sát biển và Kiểm ngư, khi xảy ra chiến tranh sẽ được trang bị vũ
khí. Với những chiến hạm này có thể thấy được sự thiếu hụt của hệ thống
phòng không trên biển và số lượng so với hạm đội Nam Hải thực sự mỏng.
Lực lượng không quân
Việt Nam có khoảng 30 Su-27/30 và gần 300 máy bay chiến đấu thế hệ cũ như
(MiG-21, Su-22). Máy bay trực thăng đủ loại loại khá nhiều, ngoại trừ một
số trực thăng chống tàu ngầm Ka – 27, còn lại hầu hết là máy bay vận tải.
Lực lượng đông đảo và có sức mạnh chủ yếu nhất là hệ thống hỏa tiễn chống các
loại tàu có từ trước mà sức mạnh chủ công là các dàn hỏa tiễn “Bastions”.
Xét từ góc độ chiến dịch
chiến thuật, những phương tiện trang thiết bị hiện nay đủ đáp ứng nhu cầu bảo
vệ vùng biển cận duyên, nhưng để bảo vệ các đảo xa và tạo sức mạnh bẻ gẫy ý đồ
chiến lược của đối phương thì chưa đủ. Do cuộc chiến tranh hiện đại sẽ sử
dụng rất nhiều vũ khí chính xác (hỏa tiễn định hướng chống tàu, hỏa tiễn đạn
đạo mang đầu đạn nổ thường, bom có điều khiển) riêng quân đội Trung Cộng có
khoảng gần 2000 hỏa tiễn định hướng các loại, khoảng trống trong hệ thống phòng
thủ bảo vệ biển đảo Việt Nam là phòng không trên biển, trong khi đó các phương
tiện tấn công đường không của Trung Cộng tương đối nhiều và đủ loại được sản
xuất nội địa.
Trung
Cộng có thể gây áp lực cho Việt Nam từ cả biển và đất liền.
Việt Nam và Trung Cộng có
chung một đường biên giới dài hàng trăm km và những tuyến biên giới khác, Trung
Cộng cũng dễ dàng gây áp lực nghiêm trọng. Lực lượng Quân đội Trung Cộng
dọc tuyến biên giới này rất lớn, thông thạo địa hình và có thể gây tổn thất
nặng nề nếu cuộc chiến xảy ra từ hai hướng (tấn công xâm lược trên biển và công
kích hỏa lực từ vùng đất liền biên giới).
Trong những năm gần đây,
các doanh nghiệp và người dân Trung Hoa đã xâm nhập Việt Nam với số lượng lớn,
nắm bắt rất kỹ tình hình kinh tế – chính trị Việt Nam, tình hình dân cư cũng
như các mục tiêu cố định quan trọng có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế
Việt Nam. Đây cũng là một trong những vấn đề mà Bắc Kinh chuẩn bị cho một
chiến dịch quy mô lớn nhằm giải quyết vấn đề Biển Đông và củng cố nội bộ đất
nước.
Hiện nay Việt Nam đang
làm tất cả để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nhưng có được lâu hơn
nữa hay không và lúc nào Trung Cộng sẽ khởi động cố máy khổng lồ của họ
phục vụ cho mục đích bành trướng và tinh thần “Hán tộc”, chỉ phụ thuộc vào tính
toán nội bộ của cường quốc gần 1,4 tỷ dân này.
Cho đến nay, tính hình hỗn
loạn trên thế giới, đặc biệt ở Ukraine, Syria và Iraq hoàn toàn thuận lợi cho
chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, Moscow đang bị phương Tây tấn công dữ dội
bằng các đòn trừng phạt, đe dọa khủng bố và cách mạng sắc màu. Washington
bị cuốn vào vòng xoáy hậu quả chính sách đối ngoại ở Trung Đông. Thế giới
đang đứng trước hai nguy cơ lớn – dịch Ebola và “nhà nước Hồi giáo”
Caliphate. Đồng thời, chiến dịch tuyên tuyền chống Việt Nam, bóp méo lịch
sử và tăng cường tinh thần “giấc mơ Trung Quốc” vị trí “Thiên triều” cũng được
đẩy mạnh trong nội bộ xã hội đại lục.
Trung Cộng đang đẩy mạnh
những hành động trái phép như xây dựng đảo nhân tạo, khai triển các
căn cứ, phi đạo quân sự trên các đảo chiếm được. Đây được
coi là bước chuẩn bị đầu tiên cho chiến lược thống trị Biển Đông của Trung
Cộng, bằng tất cả các lực lượng quân – dân sự kết hợp (tàu cá, giàn khoan,
chiến hạm, đảo nhân tạo)…
Trung Cộng có 2 kế hoạch
đã được xây dựng đến từng chi tiết nhằm hiện thực hóa âm mưu này. Kế
hoạch thứ nhất là từng bước chuẩn bị, đợi thời cơ. Khi đã chuẩn bị xong
hạ tầng chiến lược (sân bay, căn cứ), Trung Cộng sẽ tạo cớ để tấn chiếm
từng đảo nhỏ một, tiền đề cho một cuộc chinh phạt ít tốn kém và tổn thất hơn
nhưng lâu dài theo cách của năm 1988.
Kế hoạch thứ hai là khi
tình hình thế giới trở lên hỗn loạn hơn với những nguy cơ nóng bỏng, Trung Cộng
tạo dựng cơ hội giàn khoan HD – 981 tiến hành các hoạt động vu cáo “dạy một bài
học” và tung toàn bộ lực lượng Quân đội Trung Cộng để thực hiện trong một cuộc chiến
tranh ngắn độc chiếm toàn bộ biển Đông, hiện thực hóa nhanh chóng “đường chín
đoạn”. Tổn thất đối với quân đội Trung Cộng có thể rất lớn, nhưng cũng
như năm 1979, đó không phải điều mà Bắc Kinh quan tâm, mà là mục tiêu đạt
được. Kinh nghiệm của “Vạn lý trường chinh” đã thể hiện rất rõ tư tưởng
này.
Nước Nga đang ở
đâu trong thế trận Thái Bình Dương?
Thứ nhất:
Nếu như trước kia, Liên Xô có thể tiến hành những đòn phản kích mạnh buộc Trung
Cộng phải lùi bước, không cần phải răn đe bằng vũ khí hạt nhân thì hiện nay,
lực lượng vũ trang Nga đã thua sút rất nhiều trong khi đó PLA đang phát triển
vượt bậc với tốc độ lớn cả về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh và năng
lực tác chiến. Trong điều kiện thế giới hiện nay, là nước cung cấp năng lượng
và thị trường cho Trung Cộng, Nga không phải là mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh,
nhưng nếu xung đột xảy ra, vị thế của Nga trên trường thế giới sẽ suy giảm mạnh
đến mức trở lên cô lập.
Thứ hai:
25 năm trở lại đây, Nga đã trở thành thị trường lớn của Trung Cộng, đặc biệt là
các sản phẩm tiêu dùng giá rẻ, sự phụ thuộc càng tăng hơn khi những dự án đầu
tư Nga Trung thành hiện thực và dòng người lao động Trung Hoa ồ ạt chảy sang
vùng đất Viễn Đông và Siberia. Đây chính là mầm mống cho sự bất ổn vùng biên
giới Nga Trung và nguy cơ xung đột biên giới tương lai gần. Nếu Trung
Cộng giải quyết được vấn đề Biển Đông, “con đường tơ lụa” trên biển thành công,
Mỹ không đủ sức mạnh để ngăn cản Trung Cộng mà sẽ bắt tay như đã từng làm nhiều
năm trước để bảo vệ lợi ích của mình. Vũ khí ngăn chặn bằng năng lượng và
các dự án đầu tư chung phát triển Viễn Đông sẽ phản tác dụng, nước Nga đứng
trước nguy cơ bành trướng dân di cư dưới sự yểm trở của Quân đội Trung Cộng hùng
mạnh. Nếu chiến tranh biên giới xảy ra với sự thâm nhập của hàng trăm
triệu dân nhập cư, nước Nga sẽ thất bại.
Thứ ba:
Thực tế là hiện nay, nước Nga đang là một nước dân chủ, không phải là “thành
trì” Liên Xô trước đây, những chiến dịch chống Nga mà các nước lớn – (tất nhiên
không loại trừ có bàn tay Bắc Kinh để hưởng lợi) và lực lượng khủng bố quốc tế
tiến hành đang ở gia đoạn cao trào nhất. Vấn đề Ukraine và Syria không
thể giải quyết trong giai đoạn ngắn (một vài năm) mà có thể kéo dài, thậm chí
lan rộng ra từ Iraq, Libya đến châu Âu. Nước Nga nằm trong vòng vây của
khủng bố quốc tế, chủ nghĩa bài Nga, dân tộc cực đoan, lực lượng thứ Năm và sự
phụ thuộc kinh tế, hoàn toàn không thể phát huy được sức mạnh răn đe để giải
quyết vấn đề thế giới, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh và bảo vệ những người bạn
truyền thống của mình.
Nhưng hậu quả của biển
Đông cũng có thể sẽ gây cho nước Nga những nguy cơ không kém gì vấn đề Libya,
Syria hiện nay. Chính quyền Nga phải lựa chọn một giải pháp thích hợp
nhất để gây ảnh hưởng lên biển Đông vì: là nước kế thừa của Liên bang Xô viết,
đây chính là tuyến đầu của hệ thống phòng thủ cường quốc Nga và Liên minh Á –
Âu – nếu Nga là một cường quốc.