02.03.2016

ĐẦU XUÂN NÓI CHUYỆN CÁI NGHÌN VÀNG THỜI NAY - Đàm Văn Tiếu

ĐẦU XUÂN NÓI CHUYỆN
CÁI NGHÌN VÀNG THỜI NAY

Đàm Văn Tiếu

Một anh chàng du thử du thực, suốt ngày say xỉn, nhơ nhớp ở vỉa hè thành phố Berlin, bỗng chốc kiếm được bạc ngàn do đám dịch vụ môi giới đem đến, để dụ anh tới cơ quan hữu trách, ký vào tờ giấy Vaterschaftsanerkennung, nhận mình là cha của cái bào thai ở trong bụng của một người phụ nữ Việt Nam. Việc anh cần làm chỉ có thế, không phải có trách nhiệm trách nhiếc gì khác, dù anh có là cha thật hay là cha giả của đứa trẻ, khi nó sinh ra được mang tên họ của anh ta…

Trước kia những Người Việt Tỵ Nạn cộng sản sống ở Tây Đức, luôn gắn bó với nhau trong những sinh hoạt mang tính tha thiết với quê hương mẹ Việt Nam, để bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân tộc, trong đó cái tiết hạnh của người phụ nữ luôn được coi trọng…

Thế rồi khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, mọi người từng vui mừng chào đón và tổ chức những sinh hoạt nhằm giúp đỡ cho những anh chị em lao động hợp tác từ Đông Đức và các nước cộng sản Đông Âu tràn sang, với kỳ vọng là họ họ bớt cô đơn và sớm được hưởng quy chế tỵ nạn để cùng hội nhập với cộng đồng người Việt tỵ nạn.


Nhưng kỳ vọng trên qua mau, bởi khi được các đoàn thể và gia đình mở rộng cửa tiếp đón, nhiều em đã hấp tấp tìm hiểu về bối cảnh của nhửng gia đình thiếu căn bản, những người chưa có cơ hội lập gia đình v.v. Rồi bất chấp việc dùng các thủ đoạn, để có được những cuộc hôn nhân với người Việt tỵ nạn cộng sản đang sống ở Tây Đức, mà ban đầu thì chỉ để không bị trục xuất về Việt Nam. Nhưng sau đó lại yêu sách đủ thứ   khiến có kẻ bị tán gia bại sản hay căm hận.

Thủ đoạn thiếu đạo đức nhất mà chính các em bảo nhau, là nếu độc thân thì tốt, còn nếu đã có gia đình thì cũng khiến cho họ bỏ nhau để đoạt lấy.

Các thiếu nữ thì dễ dùng nhan sắc và thể xác trẻ trung, còn nam giới thì dùng tiền để mua những cuộc hôn nhân trá hình, kéo dài đủ thời hạn khỏi bị trục xuất theo luật định, rồi làm thủ tục ly dị.

Chính việc mưu tìm này đã gây ra một số  bất ổn trong cộng đồng người Việt như:

- Vì muốn có một mái ấm gia đình, nên những thanh niên không nhận tiền mà còn phải cấp dưỡng, từng hớn hở kết hôn, rồi phải cay đắng đóng vai người có vợ, nhưng không được chăn gối cho đủ 5 năm mới có thể ly dị, mà có người đã thú nhận là: “nó có bao giờ cho em rờ tới nó đâu !“ .

- Có bà góa, âm thầm làm hôn thú giả để ăn tiền, nên bị mất hết mọi trợ cấp xã hội suốt thời gian cam kết đủ 5 năm, rồi mới bãi hôn để xin trợ cấp trở lại.

- Có những cặp vợ chồng có con cái hẳn hoi, vì thất nghiệp triền miên, muốn có số tiền đem về Việt Nam xây nhà tậu đất, để tạo lấy cái sĩ diện hão của một Việt Kiều, nên đồng lòng làm ly dị giả, để cả vợ lẫn chồng làm hôn thú với người khác mà ăn tiền…v.v.

Việc kết hôn như thế chỉ là giả, mà họ tin tưởng vào những cam kết là giả. Vợ chồng thật chỉ cần âm thầm sống che dấu việc làm phi pháp qua 5 năm là xong…

Nhưng rồi giả lại đòi thành thật, khi đầu óc người trong cuộc bị nhiễm một nỗi ám ảnh thèm khát về xác thịt… Nên từng có chuyện bàn tán có nêu danh tánh hẳn hoi, về những cặp vợ chồng ly dị giả, bị cái anh chồng giả nổi máu…(?), nửa đêm đến đập cửa, đuổi cổ cái anh chồng thật ra, để đòi được ân ái với người vợ, trên danh nghĩa người chồng có hôn thú hẳn hoi…

Chuyện còn kể là vì sợ chuyện giả dối bị lộ trước sự hung hãn của anh chồng giả, nên anh chồng thiệt ôm quần ra khỏi cửa và run rẩy sợ về chuyện có thể xảy ra với người vợ, sau khi cánh cửa khép lại.

Chuyện gì đã xảy ra?
Người vợ có thể chống cự lại sự đòi hỏi của anh chồng giả không?.
Chỉ có trời mới biết !.

Những chuyện liên quan đến danh dự cá nhân như vậy, kể cả trường hợp những cặp vợ chồng ly dị giả đã dẫn đến bỏ nhau thật, thường người ta chỉ nghe rồi bỏ.

Nhưng thử hỏi về chuyện bàn tán kể trên, liệu cái anh chồng thật có thể tin được những lời thuật lại của vợ mình, về những gì đã xảy ra sau cánh cửa vào đêm hôm đó chăng, để rồi mỗi khi ân ái với nhau, thì những điều nghi nghi hoặc hoặc nó lại hiện ra.

Sống bên nhau mà cứ mang những nỗi ám ảnh như thế, thì liệu cái số tiền 30 ngàn DM mà mỗi người nhận được theo thời giá lúc đó, có đáng để mang nổi cái nỗi nhục về thể xác, nếu nó đã xảy ra, khiến nỗi hận phải ôm suốt đời, do những ám ảnh riêng tư của cả vợ lẫn chồng chăng.

Chính những người đến Đức sau khi bức tường Berlin sụp đổ này, đã tạo ra vô số những hỗn loạn về đạo đức. Vì họ được đào tạo trong một thể chế duy vật, cái đạo đức trong họ hoặc là lỏng lẻo hay không có, chỉ có ích kỷ để mưu chiếm đoạt bằng mọi giá.

Có người từng chịu thiệt về tiền của để giúp đỡ họ, cũng bị họ lợi dụng đến xém phải mang vạ, nên sợ và vì sợ nên bớt tiếp xúc, bớt giao du, nếu không muốn nói là xa lánh.

May mắn là sau khi xảy ra một số ít trường hợp bị mắc lừa, cái bị lừa giống như là tin dữ, của những con sâu biến cả nồi canh thành ghê sợ, sớm được truyền ra khắp trong cộng đồng người Việt tỵ nạn, khiến tạo ra sự tách biệt rõ rệt giữa hai khối người Việt từ hai miền Nam-Bắc.

Sự tách biệt đến nay vẫn có nhiều lý do của nó, như mới đây, để tránh bị hiểu lầm, bị vơ đũa cả nắm, về những việc phạm pháp thường xảy ra, khiến người bản xứ ghê sợ người Việt. Một Vị Bác sĩ gốc Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa, đã phải lên tiếng, khẳng định trước công luận và các quan chức bản địa là “không phải người Việt nào cũng là người Việt“, mà hãy nhìn rõ chân tướng xem những người Việt thường xuyên phạm pháp đó, được trưởng thành từ chế độ VNCH ở Miền Nam, hay là từ chế độ CS ở Miền Bắc, để mà đánh giá.

Thế rồi những hỗn độn họ gây ra trong cộng đồng tưởng đã đi vào yên ổn, hoặc vì thấy được những cái gương đến tan gia bại sản mà tránh, hay những kẻ lừa đảo đã đạt được đến mức mãn nguyện…

Lại thêm con đường hồi hương du lịch, đã mở lối cho các thanh niên ế vợ hay ngay cả những lão ông, cũng có thể về Việt Nam tìm được những cụm cỏ non ngoan ngoãn (trước mắt), để rước sang mà hủ hỉ, dẫu sau đó có bị thành những con thiêu thân mọc sừng cũng cam lòng, rồi tự an ủi lấy mình, là đã làm được điều phước, cứu một người ra khỏi cái thiên dàng CS Việt Nam.

Nhưng thực sự chuyện chưa hết, vì cuộc sống ở trong nước càng ngày càng thê thảm, khiến bất cứ ai, kể cả con cháu của những người quyền thế là bọn tư bản đỏ cũng ao ước được rời bỏ quê hương, bằng bất cứ giá nào, dù phải phiêu lưu bằng cả tài sản đất đai và mạng sống, để:

Lao vào những hành trình di dân lậu của những Người Rơm, đói khát vật vờ đến có người bỏ mạng ở khu rừng Carlais Pháp, hay bị chết vì ngộp thở khi bị nhồi nhét ở những hốc xe, để chui lậu vào nước Anh làm nô lệ cho bọn trồng cần sa.

Lao vào các đường dây buôn bán phụ nữ, hay những cuộc hôn nhân mà cô dâu nhí cam lòng lấy những lão ông gốc Việt ở Âu Mỹ đáng tuổi ông nội ông ngoại…

Thậm chí còn cam lòng, bỏ tiền ra cho bọn côn đồ, dẫn vào những hành trình thê thảm nhất là tìm đường xuất ngoại để làm đĩ lậu ở Tân Gia Ba, Mã Lai, Thái Lan và ngay cả ở Kampuchia, Trung cộng…

Mới đây chúng tôi bàng hoàng khi nghe kể về những người phụ nữ Việt theo đường di dân lậu, đến cư trú bất hợp pháp ở Berlin, vì mưu được ở lại, họ sẵn sàng hiến tặng cả chục ngàn Euro cho bất cứ ai, dù có vợ hay không, miễn là có quốc tịch hay được thường trú ở Đức trên 7 năm, để hiến cái ngàn vàng cho hưởng lạc, với điều kiện duy nhất là khi người phụ nữ có chửa, thì phải đến trước cơ quan hữu trách, ký vào tờ giấy  Vaterschaftsanerkennung, nhận mình là cha của cái bào thai đó, để khi đứa bé sinh ra, được mang quốc tịch hay được thường trú theo cha, hầu người mẹ được chính thức ở lại theo con.

Có người kể là ông ta đã nhận tiền của mấy người phụ nữ, để hưởng lạc cho đến khi họ có chửa, rồi ký giấy nhìn nhận mình là cha của cái bào thai đó là xong việc giao kết, chứ không phải chịu bất cứ trách nhiệm hay cấp dưỡng gì cả.

Vào thập niên trước giới hữu trách chỉ căn cứ vào tờ khai Vaterschaftsanerkennung, để chấp thuận cho đứa bé theo cha, nên người phụ nữ có thể có chửa với bất cứ ai, nếu không tự kiếm được người đứng ra nhìn nhận, có thể chi tiền cho cái nhóm gọi là dịch vụ, để chúng thu xếp, kiếm đại một ông già hay một tên đầu đường xó chợ nào đó, thí cho hắn chút tiền, để hắn chịu đến cơ quan hữu trách, ký vào tờ giấy nhìn con là xong.

Nhưng thời gian sau này, cơ quan hữu trách vẫn nhận tờ khai, nhưng khi đứa bé sinh ra, họ bắt làm xét nghiệm DNA rồi mới có phán quyết chính thức về việc nhìn nhận con.

Một người khá lớn tuổi kể là ông ta từng làm tờ khai nhìn con trong bụng của một thiếu nữ đáng tuổi con cháu của mình. Nhưng sau khi đứa bé sinh ra, ông ta phải hầu một phiên tòa để nghe phán quyết, về việc “Tước bỏ quyền làm cha của đứa bé“, vì xét nghiệm DNA không trùng hợp.

Ông ta không bị phạt vạ hay trả án phí gì cả, nhưng phải hoàn trả cho người thiếu nữ, cái phân nửa số tiền mà ông ta đã nhận trước, vì mưu sự không thành…

Ông ta kể là sau lần thất bại đó, người thiếu nữ lại bỏ tiền ra cho một người khác, rồi có  chửa và đã được ở lại Đức như mưu định.

Ôi việc cấy giống của Việt Kiều bỗng chốc có giá, vừa được tiền bỏ túi tới 15 ngàn Euro theo thời giá bây giờ, lại còn được hưởng lạc cho đến khi người phụ nữ có chửa, mà chỉ phải ký một chữ ký thừa nhận con trên tờ giấy, chứ không thừa nhận gì về trách nhiệm đối với đứa con do máu mủ của mình mà được sinh ra…

Ôi những người phụ nữ khi đã bước ra khỏi cái cửa khẩu Việt Nam rồi, thì chẳng muốn trở lại cái thiên đàng cộng sản nữa. Chỉ để cầu được sống lưu lạc nơi xứ người, mà phải cam lòng thí cả cái ngàn vàng cùng tiền của, để lấy giống từ những người sẵn sàng cho giống chỉ vì tiền bạc.

Ôi cái ngàn vàng, cái đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam thời bây giờ, sau 40 năm hết chiến tranh, bị bọn CSVN cai trị, đã khiến cho cái ngàn vàng ấy thua xa cả của những cô gái mãi dâm, vì các cô gái điếm cũng chỉ trao ra, cho khách mua hoa hưởng lạc để lấy tiền…  

Ở cái thời trên 2500 năm trước, vì ích nước lợi dân, chỉ có Tây Thi và Trịnh Đán tự nguyện sang Nhà Ngô, theo kế sách mỹ nhân, nhằm diệt nhà Ngô, để trả thù cho việc chúng xâm chiếm nước Việt. Còn ngày nay bọn CSVN đưa gái nước Việt đi khắp năm châu, để bán vào các động mãi dâm, để ép làm nô lệ tình dục…

Xưa một Tây Thi hiến thân cho Ngô Phù Sai để mưu diệt nước Ngô, hầu nước Việt trở thành vai Bá thời Đông Châu Liệt Quốc.

Ngày nay hàng trăm ngàn gái nước Việt lưu lạc khắp năm Châu, đem cái ngàn vàng ra mà dầy đọa, để làm giầu cho bọn CS bán nước, bọn khiến cả dân tộc Việt phải xấu hổ với các nước lân bang, xấu hổ cả với những nước như Singapore mà xưa kia họ từng ước được như Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, thì nay Singapore lại coi người Việt mình toàn là phường trộm cắp và đĩ điếm, cấm cửa không cho nhập cảnh vào nước họ.

Cái đảng độc quyền CSVN thật không bao giờ có thể khiến cho người dân Việt Nam có thể ngửa mặt lên nhìn thế giới.

Ngoại trừ việc chúng đưa Việt Nam lên những cái nhất, như là một xứ nghèo khó nhất, tham nhũng, hối lộ và đàn áp bóc lột nhất, cưỡng đoạt tài sản của đân nhiều nhất, thiếu dân chủ tự do nhân quyền nhất v.v... Nhất là có đạo quân đĩ điếm đông đảo và rẻ và trẻ nhất thế giới. Trẻ ngay ở cái tuổi mà cơ thể của những bé gái chưa phát triển đủ, để có thể làm tình, cũng bị các chủ chứa ép buộc phải khẩu dâm, để phục vụ cho bọn bệnh hoạn khốn kiếp chỉ ham thích ấu dâm.

Thế rồi trong bàn tiệc mừng Tân Niên mới đây, một Vị lão niên cười vào mũi những ai tin tưởng là cộng đồng người Việt ở miền đất München này đang được yên ổn, ông ta nói là chuyện bỏ tiền ra để mua giống thì có xa lạ gì, ngay tại München này cũng đã có những cặp vợ chồng trẻ bị tan rã do hậu quả của việc cho giống. Và chuyện kiếm mua giống vẫn đang được rỉ tai mời mọc…

Ôi chuyện ở ngay München mà chẳng hay biết gì, nó hệt như chuyện ngay trước mắt, mà Khổng Tử chẳng biết được là mình có mấy cái lông mi vậy…

Để vớt vát cho chuyện chẳng biết gì ấy, một Vị trong bàn tiệc đã nhắc vị Lão Niên kể trên là hãy nên tránh vì:  Già rồi, nhưng dù còn có sức, cũng xin ông đừng vì tiền mà đi bỏ nọc lung tung, kẻo sau này khi ra đường, đụng phải những đứa trẻ hư đốn, nói cái gì nó cũng “chúng ông chúng tao“, cũng “đéo biết, đéo nghe, …“, mà không dám xử phạt, vì sợ đụng phải con của chính mình….

Vấn đề chính trong sự việc là số tiền mươi mười lăm ngàn Euro không phải là nhỏ đối với người dân ở trong nước.

Nó lớn hơn 200 tháng lương của một công nhân, lớn hơn100 tháng lương của thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.

Cho nên chỉ có con cháu của các quan chức tư bản đỏ mới bất chấp cả cái tiết hạnh và bỏ ra số tiền lớn dễ dàng như thế mà mua giống, hầu chạy ra nước ngoài mà lập nền móng cho việc rửa tiền, lập cơ cở an toàn mà cất giấu những đồng tiền phi pháp của chúng, do tham nhũng, hối lộ và bóc lột của dân mà có.

Cái tiết hạnh đối với chúng là đồ bỏ, cái ngàn vàng cũng chả đáng gì mà không thí cho thiên hạ hưởng lạc để được có chửa, rồi lấy cái bụng chửa ấy mà ở lại tìm cách cất giấu bạc tỷ, ở nơi thật an toàn như ở nước Đức này…
 
Xưa đại đế Napoleon của nước Pháp nói với các mệnh phụ phu nhân là: Một đứa bé cần phải được giáo dục từ 20 năm trước khi nó được sinh ra“
Cha ông mình cũng nói: Chỉ cây ngọt mới cho trái ngọt.

Nên những đứa con kể trên sẽ ra thế nào, vì chúng không được sinh ra do trông đợi từ yêu thương, mà chỉ là kết quả của những thủ đoạn và mua bán mà sinh ra, tất nhiên chúng cũng sẽ trưởng thành theo kiểu “cha mẹ nào con cái nấy“,  tương lai về tiết hạnh hay đạo đức của chúng tất khỏi bàn cũng biết.

Thời gian gần đây những người có lương tâm đã phải la hoảng về lối sống và cách ăn nói thô tục của người Hà Nội hiện nay.

Ngay cả các em học sinh kể cả nam cũng như nữ hễ mở miệng ra, là hung hăng chửi tục “đéo“ với “địt“, thì đủ rõ là trên nửa thế kỷ nay, bọn cộng sản duy vật đã trồng được toàn những con người thô lỗ, chỉ biết dùng bạo lực và thủ đoạn để chụp bắt những gì ở trước mắt.

Nên tuổi trẻ và cái đất nước Việt Nam bây giờ hay ở tương lai có ra sao, thì chắc chắn từ các quan chức chóp bu XHCN ở bắc bộ phủ cho đến những người dân ở thủ đô Hà Nội cũng đều “đéo cần“ !!!!.
Đàm Văn Tiếu

Xuân Bính Thân 2016