18.05.2016

Việt Nam qua góc nhìn của người Mỹ - David Brown

(BBT: Bài viết khá dài, chúng tôi chỉ trích đăng phần liên quan đến Việt Nam)
Việt Nam qua góc nhìn của người Mỹ

David Brown, Song Phan dịch (trích đăng)

Các giới hạn của quyền lực Mỹ

Việt Nam đang đối mặt với một thách thức lớn từ người láng giềng phương Bắc. Nếu ghi nhớ trong đầu về nền chính trị hiện bị hỏng hóc của Mỹ và việc can dự đầy hao tốn tại Trung Đông, thì Washington có thể sẽ đến giúp Việt Nam trong điều kiện nào? Về mặt này, trường hợp của Ukraine đáng để xem xét nghiêm túc.

Hai năm trước, Ukraine đã cố gắng tách mình ra khỏi quỹ đạo của Nga, ngây thơ tin rằng NATO, liên minh Mỹ – châu Âu, sẽ ôm lấy và bảo vệ như một đối tác mới. Moscow đã phản ứng bằng cách cắt lấy vài phần thuộc miền đông Ukraine nơi có người thuộc chủng tộc Nga chiếm đa số – đặc biệt là khu vực Crimea. Theo cái nhìn địa chiến lược, Moscow không thể làm khác và vẫn là một đấu thủ trong nền chính trị quốc tế của các khu vực biển Đen, biển Aegea và đông Địa Trung Hải. Và, mặc dù Washington tham gia với Đức và các đồng minh khác trong việc lên án Nga viện tới vũ lực và trong việc tuyên bố ủng hộ nền độc lập của Ukraine, dường như Washington đã không nghĩ tới việc can thiệp.


Không giống như Nga, Trung cộng rõ ràng không phải là một cường quốc hiện trạng. Bắc Kinh nhắm tới việc khống chế một trật tự chiến lược mới tại Đông Á và Đông Nam Á. Họ khẳng định ‘quyền lịch sử’ về chủ quyền đối với ‘Nam Hải’ (biển Đông) và dọa chiếm lấy nhiều khu vực giàu dầu và khí đốt trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Ngay cả thế, trong trường hợp có một cuộc xung đột giữa Việt Nam và Trung cộng, dễ có thể tưởng tượng rằng, có cố vấn chính trị cho một tổng thống Mỹ tương lai sẽ đưa ra cùng kiểu lập luận vốn chiếm ưu thế ở Washington khi Ukraine kêu gọi giúp đỡ.

Trong một cuộc khủng hoảng tương lai, sẽ luôn có một số người ở Washington lập luận rằng, biển Đông không thực sự quá quan trọng, rằng có những tuyến đường biển thay thế để tới Arabia qua Eo biển Lombok của Nam Dương. Một số người sẽ cho rằng Mỹ và các đồng minh không nên làm cho mình trở thành kẻ thù của Trung cộng khi việc hợp tác với họ là cần thiết trên rất nhiều vấn đề toàn cầu. Một số người sẽ lập luận rằng, nếu hải quân Mỹ và hải quân Trung cộng dứt khoát phải đụng độ, thì đó không phải là nơi có nhiều khó khăn để điều động một hạm đội Mỹ vốn được thiết kế cho các trận chiến ở vùng biển cả, mà lại gần các căn cứ không quân và các vị trí bố trí tên lửa của Trung cộng.

Phải thừa nhận rằng, đây là một kịch bản ảm đạm, đặc biệt là đối với Việt Nam. Tuy nhiên, kịch bản đó có khả năng xảy ra. Công chúng Mỹ đang trong tâm trạng than phiền. ‘Sự khôn khéo về chính sách ngoại giao’ thường lệ, phần lớn bị mất tin cậy. Như chúng ta đã thấy, quân đội Mỹ đã bị kéo dãn mỏng ra để đối phó với cuộc xung đột ở Trung Đông. Nền chính trị Mỹ đã trở nên hỏng hóc. Những điều tiêu cực này có xu hướng buộc người kế nhiệm của Obama phải đáp ứng một cách thận trọng với các hành vi xâm lấn nhỏ của Trung cộng ở Biển Đông.

Đến bây giờ hai chính phủ Việt Nam và Phi Luật Tân đã có thể kết luận rằng việc Trung cộng mở rộng dần dần sức mạnh quân sự của họ trên biển Đông, đặt ra một mối đe dọa hiển hiện cho nền độc lập của họ. Hãy giả định rằng cả Hà Nội lẫn Manila đều nhận ra rằng vị trí chiến lược của họ tương đương với vị trí của Kiev về mặt quan trọng này. Vậy thì họ phải làm gì để bảo đảm rằng Hoa Kỳ cùng đồng minh Nhật Bản vẫn sẽ tham dự một cách tích cực và xây dựng vào việc cân bằng sức mạnh Trung cộng?

Khi Trung cộng trở nên tệ hại (đối với Phi Luật Tân, đó là khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough, phía tây của đảo Luzon, bốn năm trước đây), Manila không có thực lực hải quân đáng kể. Hải quân và Tuần duyên Phi Luật Tân bây giờ có khả năng tốt hơn để tuần tra các vùng biển của đất nuớc, nhưng họ vẫn còn phụ thuộc nhiều vào sự trợ giúp của Mỹ và Nhật Bản. Về mặt ngoại giao, chính quyền Aquino đã làm tốt. Phi Luật Tân đã buộc ASEAN phải thừa nhận rằng, hành vi của Trung cộng là có vấn đề và họ đã thách thức các yêu sách phi lý của Trung cộng tại Tòa án UNCLOS. Đảo ngược chính trị như lệ thường, Manila đã hoan nghênh việc Mỹ và Nhật Bản sử dụng các căn cứ ở quần đảo Phi Luật Tân.

Việt Nam đã có thể đối phó tốt hơn với với sự xâm phạm của Trung cộng trong vài biện pháp. Việt Nam có truyền thống đáng tự hào trong việc chống lại sự bắt nạt của Trung cộng. Một thập niên trước, Hà Nội đã bắt đầu đầu tư vào việc hiện đại hóa hệ thống phòng không và phòng thủ biển của mình. Việt Nam hiện khai triển một lực lượng ngăn chặn có thể gây ra những thiệt hại đáng kể, nếu quân Trung cộng tấn công.

Chỗ Việt Nam thiếu là: cuộc chiến giành lấy lòng người. Vì những lý do phức tạp bắt nguồn từ lịch sử chung của chúng ta, người Mỹ đã tự động đưa Việt Nam lên một chuẩn cao hơn chuẩn cho các quốc gia đang phát triển khác. Nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam mong được sự ủng hộ từ Hoa Kỳ, họ phải nỗ lực nhiều hơn để cho người dân Mỹ thấy họ xứng đáng để ủng hộ.
Bởi vì chừng nào mà đa số các ủy viên Bộ Chính trị còn tin rằng, những việc xâm phạm của Trung cộng được xử lý tốt nhất qua đối thoại giữa đồng chí với nhau, thì chế độ Hà Nội còn đưa ra một thông điệp không rõ ràng cho người dân nước này, cho các nước ASEAN và cho bạn bè trên toàn thế giới. Sau cuộc đối đầu HD-981 vào mùa hè năm 2014, lập trường của chế độ có rõ ràng hơn: Trung cộng là một kẻ xâm lược và sự trợ giúp của bạn bè được hoanh nghênh. Tuy nhiên, các hành động sau đó lại thiếu vững chắc một cách kỳ lạ. Hà Nội đã không tham gia cùng Phi Luật Tân khiếu kiện tại tòa trọng tài mà chỉ tham dự với tư cách một quan sát viên. Như công chúng Việt Nam có thể thấy được, hợp tác quân sự với Hoa Kỳ chủ yếu chỉ là trò chuyện, đánh dấu bởi các chuyến thăm cảng hàng năm.

Ban lãnh đạo Hà Nội muốn có sự ủng hộ từ bên ngoài không? Theo quan điểm của Mỹ, rất khó để hiểu vì sao Hà Nội lại tiếp tục cằn nhằn về việc kéo dài các hạn chế đối với chuyện bán vũ khí cho Việt Nam hay, có vẻ họ lo ngại rằng Mỹ có thể “bán đứng Việt Nam cho Trung cộng như đã làm hồi năm 1972 và năm 1988”. Cũng có thể do nhận được sự bảo đảm của Tổng thống Barack Obama, rằng Hoa Kỳ không có ý định phá hoại các tổ chức của đảng và nhà nước, và qua việc đặt Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương làm trung tâm trong chiến lược toàn cầu hóa kinh tế – xã hội của mình, Hà Nội chủ yếu có ý định muốn gửi một thông điệp cho Trung cộng: chúng tôi có lựa chọn khác.

Như đã giải thích bên trên, không chắc rằng các lựa chọn hiện nay bao gồm việc có thể trông cậy vào sự giúp đỡ quân sự và bán quân sự của Mỹ và có thể của Nhật Bản khi căng thẳng tăng vọt ở biển Đông. Đối với các nhà tư tưởng chiến lược chủ chốt của Mỹ, cung cấp trợ giúp nhanh chóng và hiệu quả cho Việt Nam có thể là điều phải làm. Người dân Mỹ bình thường và hầu hết các chính trị gia sẽ khó để thuyết phục hơn.

Một chuẩn mực cao hơn

Mặc dù sự thật biến đổi đáng kể, khá nhiều người Mỹ đều nhận thấy Việt Nam hiện nay là một nước cảnh sát trị, tham nhũng chính trị và toàn trị cứng nhắc, thuộc Thế giới thứ ba.

Tôi tin rằng Việt Nam là đặc biệt trong mắt người Mỹ theo hai cách chính yếu.

Thứ nhất, như là một cách để đưa những hồn ma bóng quế của chính chúng tôi vào yên nghỉ, chúng tôi những người Mỹ, gồm cả người Mỹ gốc Việt, hy vọng sẽ nhận thấy rằng, từ thử thách nghiệt ngã của cuộc chiến tranh làm chúng tôi bị hạ thấp, một nước Việt Nam giàu mạnh hơn xuất hiện.

Thứ hai, vẫn còn một số người Mỹ quan tâm tới những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Những công chúng tinh mắt này bao gồm nhiều cựu chiến binh hoặc chuyên gia dân sự từng đến VNCH với thiện ý khoảng hơn 50 năm trước. Tập thể này cũng bao gồm con cháu của những người tị nạn đã xây dựng cuộc sống mới ở Mỹ nhưng không bao giờ đánh mất tình yêu đối với mảnh đất nơi họ sinh ra. Tập thể này còn gồm cả những người đàn ông và phụ nữ mà việc họ tham gia vào đời sống chính trị Mỹ bắt đầu với những cuộc biểu tình dũng cảm chống lại sự can thiệp của Mỹ trong cuộc nội chiến của Việt Nam. Những nhóm này có ảnh hưởng chính trị lên các dân biểu và nghị sĩ đại diện cho họ. Họ gây ảnh hưởng tinh thần đến các đồng bào của mình.

Tôi đã lập luận trong một bài viết khác chống lại nhận thức về Việt Nam như một chế độ toàn trị cứng nhắc, qua việc chỉ rõ sự mở rộng rất đáng kể các quyền tự do dân sự trong những năm gần đây, được thúc đẩy không phải do sáng kiến của nhà nước, mà nhờ toàn cầu hóa và việc truy cập vào mạng toàn cầu (world wide web). Tuy nhiên, tư thế chính thức của Hà Nội về quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn chưa tiến triển, và chỉ riêng việc này thôi lại đặt ra những giới hạn rất thực tế về khả năng phát triển các mối quan hệ song phương. Mỗi khi Hà Nội bắt giữ hoặc truy tố những người có vẻ như chỉ đơn giản đang thực hiện các quyền hiến định, thì việc đó lại củng cố niềm tin của công chúng Mỹ rằng, Hoa Kỳ chớ nên dính dáng vào một cuộc xung đột ở xa xôi vì một chế độ không rõ ràng.

Đàn áp bất đồng chính kiến ôn hòa là tiếp thêm đạn cho các nhà lập pháp Mỹ đang nhắm bắn hạ thỏa thuận TPP. Trái lại, bằng chứng cho thấy Bộ Chính trị mới có ý định mở rộng quyền tự do chính trị sẽ làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam với tư cách là một đối tác trong Hiệp định xuyên Thái Bình Dương.

Tôi hy vọng có rất ít các lãnh đạo Hà Nội thật sự còn tin rằng, các tổ chức xã hội dân sự độc lập tự thân có ý đồ lật đổ chính quyền. Tôi tin rằng các lãnh đạo chóp bu trong chính phủ mới của Việt Nam thật lòng muốn cắt đi các quan hệ tham ô giữa giám đốc các doanh nghiệp nhà nước với các quan chức cao cấp của chính phủ. Nếu cả hai điều này là đúng thì tại sao lãnh đạo mới của Việt Nam lại ngần ngại thực hiện hành động đột phá nhân danh các công dân của đất nước? Không giống các vị tiền nhiệm lúc đương chức, Nguyễn Phú Trọng, Đinh Thế Huynh, Trương Hòa Bình, Trần Đại Quang và các đồng liêu của họ ít nhiều an toàn trước các cáo buộc lệch lạc về ý thức hệ. Vì thế điều nghịch lý là họ đang ở trong một vị thế mạnh hơn để thực hiện cải cách chính trị.

Cách thức và việc định thời gian cho cải cách chính trị là chuyện của Việt Nam. Không nước nào cho mình có quyền áp đặt lựa chọn của Việt Nam. Như Tổng thống Obama đã nói với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 7 năm ngoái, Mỹ tôn trọng hệ thống chính trị của Việt Nam. Tuy nhiên, người Mỹ chắc chắn sẽ hoan nghênh nếu Quốc hội bãi bỏ Điều 258 và các quy định khác của bộ luật hình sự, vốn xâm hại các quyền tự do dân sự được hiến pháp nêu lên. Chúng tôi sẽ rất có ấn tượng nếu chính phủ Việt Nam tập trung nỗ lực nhiều hơn trong quản lý kinh tế và ít hơn trong việc can dự trực tiếp vào đó. Chúng tôi sẽ rất vui mừng khi thấy có những nỗ lực mạnh mẽ và bền vững để xây dựng sự minh bạch thật sự và có sự tham gia rộng rãi hơn vào quá trình ra quyết định chính trị của Việt Nam.

Theo cái nhìn  của tôi, để đặt nền tảng cho một mối quan hệ mạnh mẽ và lâu bền với Hoa Kỳ, ban lãnh đạo mới chỉ cần tin tưởng vào sự thành tâm và thiện ý của chính công dân Việt Nam, và từ đó có hành động phù hợp. Đó là một bước đi hoàn toàn hợp lý, bởi vì hy vọng lớn nhất của Đảng Cộng sản muốn nắm quyền mãi mãi thì phải trở thành cái gì khác – một tổ chức chính trị ít tham nhũng hơn, nhiều minh bạch hơn và dốc sức vào việc đưa tới ngày càng nhiều tự do hơn cho các công dân của mình.

David Brown, Song Phan dịch

(David Brown là bình luận gia thường trực của tờ Asian Sentinel.
Bài này viết riêng cho trang Ba Sàm)