Peter Navarro, Ph.D., Trịnh Y Thư dịch
Lời người dịch: Sau
khi Tòa án Trọng tài Thường trực đưa ra phán quyết bác bỏ
tính hợp pháp của tuyên bố chủ quyền “đường lưỡi bò chín đoạn” của Trung cộng
– đòi chủ quyền 90% lãnh hải Biển Đông, một vùng biển rộng cả triệu
dặm vuông, hải sản và tài nguyên phong phú, và cũng là một hải tuyến
giao thương quan yếu mỗi năm 5 nghìn tỉ đô la hàng hóa qua lại – Trung
cộng vẫn tiếp tục xem thường công luận quốc tế, duy trì thái độ hung hăng cố hữu,
không ngừng tập diễn quân sự tại các hòn đảo nhân tạo cưỡng chiếm quanh quần đảo
ám tiêu san hô Trường Sa, đồng thời tích cực vận động ngoại giao để lôi kéo đồng
minh về phe mình.
Hành động này của Trung cộng hiện đang
là đề tài cho không ít những tranh nghị, tuy không làm thành bản tin nóng hổi hằng
ngày trên các đài truyền hình Hoa Kỳ nhưng ở hậu trường nó là vấn đề nhức nhối
vô cùng nghiêm trọng và được quan tâm tối đa trong giới lãnh đạo và học giả
chuyên gia Hoa Kỳ. Đã có không ít giấy mực tuôn ra với nhiều luận điểm khác
nhau trên các diễn đàn chính trị kinh tế, điển hình là bài viết phân tích đầy đủ
và sâu sắc của Giáo sư Tiến sĩ Peter Navarro dưới đây. Dẫn chứng các học giả,
phân tích gia chiến lược, chuyên gia chính trị và kinh tế thuộc các học viện và
“think-tank” danh tiếng, ông đưa ra cái nhìn sáng suốt và thực tiễn về thực trạng
quan hệ chiến lược giữa Trung cộng và Hoa Kỳ, về hiểm họa chiến tranh có thể xảy
ra giữa hai cường quốc kinh tế – quân sự này, và đáng chú ý nhất, về cán cân lực
lượng chiến lược giữa đôi bên, về những thách đố khó khăn Hoa Kỳ phải đương đầu.
Phần cuối bài viết, ông đề xuất chính sách chiến lược Hoa Kỳ nên áp dụng trong
những thập niên sắp tới hầu có thể đối phó với con hổ phục Trung cộng đang giơ
nanh múa vuốt với mưu toan chinh phục chẳng những vùng Châu Á – Thái Bình Dương
mà cả toàn thế giới.
Mặc dù tác giả viết bài này từ góc nhìn
của Hoa Kỳ nhưng đây là bài viết đáng đọc cho người Việt quan tâm đến vấn đề Biển
Đông bởi vì vị trí đặc biệt của Việt Nam ở vùng tranh chấp và dù muốn hay không
Việt Nam vẫn nằm trong quỹ đạo chiến lược của hai siêu cường ấy.
Giáo sư Peter Navarro tốt
nghiệp Đại học Harvard với cấp bằng Tiến sĩ Kinh tế học, hiện giảng dạy tại Đại
học California-Irvine (UCI). Từ nhiều năm nay ông được biết đến như một chuyên
gia Kinh tế vĩ mô xuất sắc, tác giả của mười một cuốn sách đã xuất bản. Cuốn mới
nhất có nhan đề „ Con hổ phục: Chủ nghĩa quân phiệt của
Trung cộng có ý nghĩa gì với thế giới“, mà ông đã
dựa vào để thực hiện bài viết dưới đây, đăng trên quý san World
Affairs Journal số mùa Đông năm 2016. Ông viết nhiều về Châu Á, có thời
gian sinh sống và công tác nơi đó. Ông từng xuất hiện trên các đài truyền hình
như BBC, CNN, CNBC, MSNBC, NPR, và chương trình “60
Minutes” của đài CBS. Ông cũng viết tham luận cho các tờ báo danh tiếng như New
York Times, Wall Street Journal và Washington Post. Đặc
biệt, ông còn chính tay thực hiện một cuốn phim tài liệu nhan đề “Death
by China” (Vì Tàu mà chết) do nam tài tử nổi tiếng Martin Sheen
giữ phần thuyết minh. (Bạn có thể stream cuốn phim này trên Netflix.)
Xin có đôi
lời về bản dịch. Khi dịch cụm từ South China Sea, tôi không dịch là Biển Đông mặc
dù đấy vẫn là tên gọi vùng biển này của người Việt xưa nay, mà dịch là biển Nam
Hoa, lý do vì không muốn nhầm lẫn với East China Sea trong ngữ cảnh toàn bài.
Hình ảnh trong bài là do tôi thu nhặt từ Từ điển Bách khoa Wikipedia và cuốn sách nói
trên của tác giả. Thêm vào đó, tôi dựng bảng chú thích để giúp phần nào hiểu
thêm văn bản nguyên tác. Phần chú thích, nếu có sai lầm hoặc sơ sót mong được
quý độc giả chỉ giáo.
*
Giáo sư
Peter Navarro
Sẽ có
chiến tranh với Trung cộng không? Câu trả lời có lẽ tùy thuộc ai là người thắng
cử vào Tòa Bạch Ốc năm nay, và chính sách nào chính phủ mới sẽ đem ra áp dụng.
Mối đe dọa một
cuộc xung đột xảy ra không hẳn là hoang tưởng. Chuyên gia chính trị Stefan Halper thuộc Đại học Cambridge không muốn “báo động”
nhưng ông ghi nhận là có những “khác biệt sâu sắc” Trung
cộng quyết tâm chuẩn bị giải quyết vấn đề bằng vũ lực. Ông Graham Allison thuộc Đại học Harvard cũng cảnh giác tương tự
về một cái “bẫy Thucydides”1 mà trong đó một Trung cộng đang trên đường tiến lên địa vị cường quốc sắm
vai trò Athens để kình chống lại Sparta Hoa Kỳ, và từ mối quan ngại có
thể sẽ dẫn đến cuộc chạy đua võ trang và cuối cùng là chiến tranh. Ông Michael Green thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế
thì đưa ra lời đánh cuộc như sau: “Hoa Kỳ phải tiên kiến một tương lai nhiều khả thể với Trung
cộng, có thể hòa hoãn, thân thiện nhưng cũng có thể cực kỳ khó khăn, khốc
liệt, và ở trường hợp tệ hại nhất, một Trung cộng hung hãn, thù địch.
Với gia tốc bành
trướng quân sự như đang thấy, nếu Trung cộng chỉ tìm cách bảo vệ lãnh thổ và
phát triển những tuyến giao thương toàn cầu để quốc gia thêm thịnh vượng thì thế
giới có thể ngủ yên. Nhưng nếu Trung cộng cùng lúc quyết tâm theo đuổi chủ
nghĩa bành trướng, tìm cách đẩy lui quân đội Hoa Kỳ ra khỏi vùng Châu Á – Thái
Bình Dương, cưỡng chiếm lãnh thổ, lãnh hải, cùng tài nguyên từ các quốc gia lân
bang, thì có lẽ khó tránh được xung đột.
Sách lược tăng
cường lực lượng quân sự để bảo vệ lãnh thổ của Bắc Kinh có căn nguyên từ ý thức
“Thế kỷ Nhục nhã”2. Từ những năm 1830 cho đến khi Thế Chiến Thứ Hai
chấm dứt, Trung Hoa nằm dưới sự áp bức tàn bạo của ngoại nhân. Từ người Anh,
người Nga, người Nhật cho đến người Đức, người Pháp, người Mỹ, tất cả hiếp dâm,
chặt đầu, chiếm cảng, giành đất của người Trung Hoa. Ông Toshi Yoshihara thuộc Đại học
Quân sự Hải quân Hoa Kỳ bảo, “Bài học
lịch sử người Trung Hoa học được là ‘không bao giờ để tái diễn.’ Trung cộng sẽ không bao giờ để mình yếu kém nữa bởi vì yếu
kém có nghĩa là mời gọi ngoại nhân vào ức hiếp mình.”
Sách lược bành
trướng quân sự cần thiết cho việc bảo vệ các tuyến giao thương cũng bắt nguồn từ
lịch sử. Ngay từ khi Đặng Tiểu Bình khởi động tái thiết Trung cộng, từ một quốc
gia xã hội chủ nghĩa, tự lực cánh sinh, một bán cường quốc vùng để trở thành một
siêu cường kinh tế toàn cầu như ngày nay, Tư lệnh Hải quân Trung cộng lúc đó,
Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), đã bắt tay xây dựng một lực lượng hải quân
tiên tiến để giúp họ Đặng củng cố và duy trì một Trung cộng kinh tế hùng mạnh.
Trong mắt nhìn của ông Yoshihara và ông James Holmes cũng thuộc Đại học Quân sự
Hải quân Hoa Kỳ thì họ Lưu là một nhà quân sự Mahan, một danh hiệu lấy từ tên họ
ông Alfred Thayer Mahan, một chiến lược gia lý thuyết người Mỹ sống vào thế kỷ
XIX, người đề xuất chiến lược dùng lực lượng Hải quân toàn cầu như một phương
tiện hỗ trợ phát triển kinh tế.
Lưu
Hoa Thanh đề xuất chiến lược ba bước mà hình như Trung cộng kiên trì theo đuổi
từ đó cho đến nay. Ở bước đầu, Trung cộng
sẽ phá vỡ mắt xích quần đảo thứ nhất, đó là
hải tuyến chạy dài từ quần đảo Kuril
và Nhật Bản xuyên qua tâm điểm Đài Loan băng ngang eo biển Luzon đến Phi Luật Tân và xuống tận đảo
Borneo của Mã Lai. Về điểm
này học giả Dean Cheng thuộc Sáng hội Heritage cho chúng ta biết, “Nếu mắt xích quần đảo thứ nhất nằm trong tay
những quốc gia thù địch chống lại Bắc Kinh thì nó là cái rào cản không cho
Trung cộng khả năng đi ra biển khơi.”
Bước
thứ hai Trung cộng sẽ chặt đứt mắt xích
quần đảo thứ hai, tức là hải tuyến chạy dài từ quần đảo Kuril xuống tận Tân Guinea, đâm thẳng qua cái neo của lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở
Châu Á: thành trì đảo Guam.
Hai mắt xích quần đảo Lưu Hoa Thanh muốn
phá vỡ
Sau cùng, vào quãng năm 2050, hạm đội Trung cộng sẽ bao trùm toàn cầu
phóng chiếu quyền lực ra toàn thế giới.
Nếu Trung cộng thật sự thành công kiểm soát toàn thể
lãnh hải Châu Á – Thái Bình Dương, họ chỉ có thể làm được bằng cách đánh bại Hoa
Kỳ hoặc bắt Hoa Kỳ bằng lòng mà không có một thái độ phản kháng nào. Dĩ nhiên,
hậu quả sẽ là một Trung cộng càng hiếu chiến hơn với các quốc gia lân bang,
tương tự như Nga với Đông Âu ngày nay.
Với “trò chơi lớn” mới này, hiểm họa chiến lược và
kinh tế là vô cùng lớn lao. Về mặt chiến lược, kẻ nào
kiểm soát cửa ngõ biển Nam Hoa ra Ấn Độ Dương, đi luồn qua eo biển Malacca nhỏ
hẹp và trắc trở, kẻ đó kiểm soát luôn Đông Nam Á, và có lẽ cả Đông Á, bởi
đa phần dầu khí dùng thắp đèn cho Nhật Bản và Nam Hàn đều phải đi qua vùng biển
Nam Hoa này.
Thêm nữa, con đường buôn bán “lụa và hương liệu” hiện
đại là hải trình của một phần ba tổng số lượng hàng hóa chuyên chở toàn cầu,
chưa kể biển Đông Hoa và Nam Hoa còn là vùng biển có nhiều cá. Trong lúc đó, nằm
bên dưới hơn một triệu dặm vuông đáy biển có thể là những túi dầu hỏa sánh
ngang với vịnh Ba Tư.
Ở biển Nam Hoa, Trung cộng đã “thái dồi” xong quần đảo
Hoàng Sa trong tay Việt Nam và ngang nhiên kéo những giàn khoan dầu nổi có cả hạm
đội tàu chiến yểm trợ vào vùng biển mà Hà Nội vẫn xem là thuộc Việt Nam. Cùng một
nước cờ, Trung cộng cưỡng chiếm bãi đá ngầm Macclesfield Bank và bãi cạn
Scarborough Shoal3 của Phi Luật Tân, bãi cạn Thomas Thứ Nhì vẫn
còn dằng dai trong vòng tranh chấp chủ quyền giữa đôi bên. Thậm chí Trung cộng
còn để mắt đến vùng biển giàu khí đốt thuộc quần đảo Natuna của Nam Dương, cách
xa Hoa Lục cả nghìn dặm.
Tương tự như thế ở vùng biển Đông Hoa, Nhật Bản cũng
đang lâm vào tình trạng dằng co càng lúc càng găng với Trung cộng về đảo
Senkaku, một quần thể năm hòn đảo nhỏ với tổng diện tích không quá hai dặm
vuông. Vụ tranh chấp gay gắt này, được tô đậm bởi tinh thần quốc gia cực đoan,
đã dẫn đến những cuộc biểu tình bài Nhật vĩ đại ở Hoa Lục cũng như những vận động
của Tokyo nhắm đến một khả năng quân sự hùng mạnh hơn. Nó cũng đe dọa một viễn ảnh
Hoa Kỳ bị lôi kéo vào vòng tranh chấp.
Nhiều quan sát viên tỏ vẻ hoang mang không hiểu lý
do tại sao Trung cộng lại càng lúc càng hung hăng tìm cách cưỡng chiếm vài “tảng
đá bé xíu nằm chơ vơ trên mặt biển” như thế. Kỳ thực, chiếu theo Công ước Liên
Hiệp Quốc về Luật Biển ký kết năm 1982 thì quốc gia nào sở hữu những bãi đá mà
có thể duy trì cuộc sống đều được hưởng quy chế “Vùng Đặc quyền Kinh tế”, một đặc
quyền khai thác tất cả tài nguyên thiên nhiên trong vòng 200 dặm. Bởi thế, theo
giải thích của học giả Stefan Halper
thuộc Đại học Cambridge, một cường
quốc lục địa như Trung cộng có thể bành trướng chủ quyền
hàng hải nhanh chóng và sâu rộng nhờ những “vòng tròn đồng tâm” với “hiệu ứng
nhảy cừu.” Để đạt mục tiêu họ chỉ cần cưỡng chiếm những hòn đảo nhỏ đang tranh
chấp.
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển cũng gây phức tạp
rất lớn cho quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung cộng. Trung cộng đơn phương đưa ra khẳng
định không cho tự do hàng hải, kể cả tàu chiến và máy bay quân sự, chẳng những
trong phạm vi cách đất liền 12 dặm mà cả Vùng Đặc quyền Kinh tế 200 dặm, một điều
không hề được nói đến trong Công ước. Nếu chủ thuyết “ngăn biển” này của Trung
cộng được chấp nhận, Trung cộng sẽ nắm trọn quyền kiểm soát tuyến giao thương lợi
lộc nhất trên thế giới.
Bản đồ Biển Đông (theo cách gọi của Việt
Nam) với đường “lưỡi bò chín đoạn” mà Trung cộng áp đặt trong mưu toan thâm độc
cưỡng chiếm 90% lãnh hải.
Sự tranh chấp về thẩm quyền này đã dẫn đến nhiều vụ
va chạm. Năm 2001 Trung cộng bắt giữ phi hành đoàn một máy bay thám thính của Hoa
Kỳ bị rơi. Gần đây hơn, chiến đấu cơ Trung cộng bay những phi thức lộn vòng
nguy hiểm cố tình khiêu khích một máy bay tuần tra của Hoa Kỳ. Dưới biển Trung
cộng cũng cho tàu chiến bám đuôi tàu USS Impeccable, một chiếc
tàu không võ trang chỉ có nhiệm vụ giám sát đại dương. Chưa hết, Trung cộng còn
chặn tàu USS Cowpens, một tuần dương hạm trang bị phi đạn tự hành,
không cho tàu chiến này hoạt động trong hải phận quốc tế.
Sở dĩ không có quả bom nguyên tử nào thả xuống mặt đất
trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, là vì Hoa Kỳ và Liên Xô nói chuyện với nhau.
Thí dụ, giữa Tổng thống Hoa Kỳ và Thủ tướng Liên Xô có một “đường dây nóng” bắt
đầu hoạt động từ năm 1963, và các chỉ huy trưởng Hải quân thường xuyên liên lạc
với nhau “từ đài chỉ huy này sang đài chỉ
huy kia.”
Giữa Trung cộng và Hoa Kỳ ngày nay, không hề hiện hữu
một cái “cầu dao” như thế. Cựu Thứ trưởng Quốc phòng Kurt Campbell lên khung dị
biệt chiến lược này như sau: “Hoa Kỳ chủ
trương phô trương sức mạnh. Xem này, chúng tôi mạnh mẽ là nhường nào, các ông
chớ có mà vọng động.” Ngược lại, Trung cộng “tìm thế ngăn chặn các lực lượng thù địch, thông thường là qua phương
cách tạo sự bất định, không chắc chắn, khiến không ai biết rõ họ có khả năng gì.”
Học giả David Lampton thuộc Đại học John Hopkins nói thêm: “Chúng ta tự khiến
mình tin là sự sáng tỏ sẽ ngăn ngừa xung đột, nhưng Trung cộng thì lại tin
chính sự mơ hồ và không minh bạch mới đem lại kết quả tốt cho họ.”
Tương tự như thế, có sự dị biệt chiến lược khi các
tàu chiến Hoa Kỳ và Trung cộng chạm trán nhau trên đại dương, và những sự kiện
như thế ngày càng gia tăng. Từ quan điểm của Hoa Kỳ, liên lạc với nhau “từ đài
chỉ huy này sang đài chỉ huy kia” là quan trọng vì nó giúp tránh những tính
toán sai lầm. Tuy nhiên, theo giải thích của bà Stephanie Kleine-Ahlbrandt thuộc Học viện Hòa bình Hoa Kỳ thì, đối với Trung cộng, đường dây trao đổi
thông tin ấy chỉ là “dây cài bảo hiểm cho những kẻ phóng xe quá tốc độ.”
Đúng thế, giới lãnh đạo
quân sự Trung cộng tin tưởng là sẽ có lợi cho Trung cộng hơn nếu cứ để các nhà
quân sự Hoa Kỳ lo lắng, phân vân, không biết phản ứng của Trung cộng sẽ như thế
nào. Làm thế phía Hoa Kỳ sẽ thận trọng hơn. Đôi khi hình như họ quên mất
một điều là “sự việc có thể vuột ra ngoài tầm kiểm soát” như giáo sư Campbell
nói.
Hai cột trụ chống đỡ chiến lược quân sự của Trung cộng
– ngăn vùng và chiến tranh bất đối xứng – cũng nhắm vào những xung đột có thể xảy
ra trong tương lai.
Chuyên gia Mark Stokes thuộc Học viện Nguyên cứu Chiến
lược hiểu các thuật ngữ quân sự “chống xâm nhập” và “ngăn vùng”4 là
“ngăn cản.” Theo bà Bonnie Glaser thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế
thì mục tiêu của Trung cộng là ngăn chặn các quốc gia khác, đặc biệt là Hoa Kỳ,
để không nước nào có khả năng can thiệp vào lãnh địa hay lãnh hải gần Trung cộng
một khi biến động khủng hoảng xảy ra.
Còn theo ông Bill
Gertz thuộc tổ chức Washington Hải
đăng Tự do thì chiến lược bất đối xứng đi kèm theo của Trung cộng không có
mục đích “chống lại guồng máy chiến tranh
của Hoa Kỳ trên cơ bản một-chọi-một, như đã từng xảy ra trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.” Thay vào đó, “Trung cộng tập trung năng lực thiết lập những
hệ thống vũ khí thích dụng.” Ông Toshi Yoshihara, một học giả của trường Đại học Chiến tranh, tuyên bố như sau: “Một phần của cái đẹp đen tối trong chiến lược chống xâm nhập và ngăn
vùng của Trung cộng là sự chênh lệch rất xa giữa giá thành của các hệ thống vũ
khí. Thí dụ, để đóng một chiếc hàng không mẫu hạm người
ta phải tốn nhiều tỉ đô la, trong khi một giàn hỏa tiễn của Trung cộng chỉ tốn
vài triệu; và chỉ cần một hỏa tiễn là có thể bắn trúng mục tiêu. Một trận
thư hùng như thế, Hoa Kỳ khó mà thắng được. Trung cộng có thể sản xuất ra thật
nhiều hỏa tiễn so với số lượng tàu lớn của Hoa Kỳ.”
Ông Ashley
Tellis thuộc tổ chức Hỗ trợ Hòa bình
Thế giới Carnegie miêu tả chiến lược đặt trọng tâm
vào hệ thống hỏa tiễn “mũi giáo” của Trung cộng có khả năng tấn công nhiều mục
tiêu ở tất cả các hướng như là “một
thí dụ tuyệt hảo về chiến tranh bất đối xứng.” Ông giải thích thêm, “Điểm thìa khóa các loại hỏa tiễn đạn đạo và hỏa
tiễn tấn công đất liền giúp tạo thế thượng phong là khống chế khả năng phòng
không của phe địch. Một khi triệt hủy được khả năng phòng không rồi, bạn có thể
đem oanh tạc cơ hạng nặng vào trận địa.” Cùng một nhận định như vậy, ông Dan Blumenthal thuộc Viện Thương mại Hoa Kỳ bảo, “Vì thế, cho dù bạn ở Đài Loan, hay Nhật Bản
hay thậm chí Việt Nam, bạn không ngừng trực diện những giàn hỏa tiễn của Trung
cộng mà có thể bắn trúng bạn. Mỗi lần thương thảo với
người Tàu cộng, ngay đầu bạn lúc nào cũng có một khẩu súng lăm lăm chĩa vào.”
Không hẳn chỉ những quốc gia láng giềng với Trung cộng
nằm trong tình trạng nguy hiểm. Trong mắt nhìn của ông Lyle Goldstein, cũng thuộc Đại
học Quân sự Hải quân Hoa Kỳ, thì loại hỏa tiễn
siêu âm mới, cực kỳ cơ động, có khả năng lướt ngoài không gian của Trung cộng
là mối đe dọa đặc biệt đối với các căn cứ tiền đồn và tàu sân bay của Hoa Kỳ
bởi vì loại hỏa tiễn này có một tốc độ siêu đẳng lúc từ không gian chui vào thượng
tầng khí quyển.” Ông Gertz giải thích thêm: “Tất cả hỏa tiễn phòng vệ chống hỏa tiễn của quân đội chúng ta đều được
chế tạo để chống hỏa tiễn đạn đạo và các loại hỏa tiễn khác có quỹ đạo tương đối
dễ tiên đoán. Khi phải đối đầu với loại đầu đạn cơ động bay với tốc độ gấp mười
lần tốc độ âm thanh thì các hệ thống chống hỏa tiễn của chúng ta trở nên tương
đối kém hiệu quả.”
Trung cộng cũng dự trữ trong kho đạn một số lượng thủy
lôi khổng lồ, nhiều nhất thế giới, và hạm đội tàu ngầm gia tăng mỗi ngày mỗi
nhanh của họ thích nghi khít khao với chiến lược này. Mục đích của chiến thuật
thả thủy lôi không phải là đánh đắm tàu địch, mà ngăn chặn, không cho tàu địch
tiến vào hải phận bằng đòn khủng bố tâm lý và làm chậm tiến độ hải hành vì phải
mất nhiều thời gian vét mìn. (Thí dụ, trong trận chiến Vùng Vịnh, mặc dù Hải
quân Hoa Kỳ đã tốn rất nhiều công sức vét mìn, nhưng vẫn có hai quả thủy lôi nổ,
mỗi quả trị giá không quá 50 ngàn đô la, làm thiệt hại tuần dương hạm USS
Princeton trị giá một tỉ.) Trong mắt nhìn của ông Bernard Cole thuộc Đại
học Quốc phòng thì thủy lôi là rào cản đặc biệt khó khăn trong trường hợp chiến
tranh xảy ra giữa Trung cộng và Đài Loan bởi vì cả đảo Đài Loan chỉ có hai hải
cảng. Ông Yoshihara nói: “Nếu Trung cộng
tiên hạ thủ vi cường thả thủy lôi ngoài khơi hai hải cảng này, Đài Loan sẽ bị
xem như cô lập. Không còn một hải cảng nào khác khả dĩ làm đường tiếp vận giúp
Đài Loan tiếp tục chống đỡ.”
Thủy lôi của Trung cộng được dùng song hành với hạm
đội tàu ngầm chạy bằng diesel và điện. Đến năm 2020, theo dự báo của Ngũ Giác
Đài, Trung cộng sẽ có một hạm đội tàu ngầm từ 69 đến 78 chiếc. Gần như tất cả
những tàu ngầm mới đóng đều được trang bị máy móc nhập từ nước ngoài cho hệ thống
lực đẩy không tùy thuộc không khí.5 Nhiều chiếc cũ cũng được
tân trang với loại hệ thống máy móc đó. Ông Richard Fisher thuộc Trung tâm Lượng
định và Chiến lược Quốc tế ghi nhận: “Tàu
ngầm chạy bằng diesel và điện loại quy ước vốn dĩ đã khó truy tầm vì chúng
không phát ra tiếng động lớn. Nay lại được trang bị bằng hệ thống lực đẩy không
tùy thuộc không khí, chúng sẽ trở nên thập phần nguy hiểm hơn, nhất là đối với
hạm đội tàu sân bay Hoa Kỳ.”
Ông Yoshihara hình dung ra một viễn ảnh ác mộng
trong đó các tàu ngầm quy ước của Trung cộng nằm dưới đáy biển chờ hạm đội tác
chiến tàu sân bay Hoa Kỳ đến gần rồi đồng loạt phóng ra hàng loạt hỏa tiễn tầm
xa chống tàu chiến để đánh phủ đầu đoàn tàu chiến phòng thủ. Chiến thuật đó chẳng
những khiến người ta nhớ lại phương châm của Joseph Stalin “số lượng có chất lượng
của chính nó,” mà còn đặt nghi vấn về niềm tin vẫn được bám víu một cách sâu rộng
bấy lâu nay, đó là, kỹ năng vượt trội của guồng máy quân sự Hoa Kỳ sẽ luôn luôn
đem lại chiến thắng.
Ông Aaron
Friedberg thuộc Đại học Princeton
cho chúng ta cái nhìn điềm tĩnh như sau: “Cộng đồng tình báo của Hoa Kỳ đã ngạc nhiên hết sức về chất
lượng các hệ thống vũ khí do Trung cộng chế tạo, và một phần của lý do đó là
Trung cộng đã và đang đánh cắp những sáng chế mật của Hoa Kỳ.” Kết
quả, ngày nay Trung cộng có thể chế tạo máy bay không người lái y như Hoa Kỳ. Họ
cũng bắt đầu cho bay những máy bay tối tân nhất, như chiến đấu máy bay ném bom
Chengdu (Thành Đô) J-20, mà Ngũ Giác Đài đã đánh giá sai lầm là cả nhiều thập
niên nữa mới có; và, không như Hoa Kỳ bị hạn chế ngân sách (phải chấm dứt kế hoạch
sản xuất chiến đấu cơ tối tân F-22), Trung cộng sẽ tùy tiện sản xuất với số lượng
khổng lồ bất kỳ loại vũ khí nào họ cho là cần thiết, tương tự như Hoa Kỳ đã làm
thời Thế Chiến Thứ Hai để đánh phủ đầu những vũ khí tối tân hơn của Đức Quốc.
Chiến đấu cơ tàng hình thế-hệ-thứ-năm
Chengdu J-20 của Trung cộng
Trung cộng công khai áp dụng chiến lược hai-gọng-kìm
“giết hàng không mẫu hạm” để ngăn chặn, không cho lực lượng Hoa Kỳ xâm nhập
vùng biển Châu Á – Thái Bình Dương bằng cách đi cưỡng chiếm các hòn đảo trong
vòng tranh chấp thuộc vùng biển Đông Hoa và Nam Hoa. Trung cộng cũng lăm le xâm
lấn những ngọn đồi vùng biên giới Bắc Hàn, thậm chí còn muốn lấy đất của bang
Arunachal Pradesh của Ấn Độ, vùng đất mà Trung cộng gọi là “Nam Tạng.”6
Làm thế nào để duy trì hòa bình dưới những sức ép
càng lúc càng gia tăng như thế? Chắc chắn Hoa Kỳ đã đánh cuộc khá lớn vào sức mạnh
phát triển kinh tế trong ý định chuyển hóa Trung cộng từ một chế độ độc tài, hiếu
chiến thành một cơ cấu dân chủ tự do. Tuy vậy, theo lời ông Ian Fletcher thuộc Liên minh cho một Quốc gia Hoa Kỳ Thịnh vượng thì: “Phát triển kinh tế ở
Trung cộng không đưa quốc gia này đến chỗ dân chủ hơn. Nó chỉ giản dị biến
thành một thể chế độc tài tinh vi và giàu có hơn.”
Quan trọng là sự am hiểu tinh tường về vai trò của
tính liên thuộc kinh tế trong việc ngăn chặn – hay gây nên – xung đột. Nếu một
quốc gia như Trung cộng tùy thuộc nhiều vào việc buôn bán những món hàng quan yếu
cho nền an ninh quốc gia, quốc gia ấy rất có thể chọn giải pháp chiến tranh một
khi sự liên thuộc kinh tế gia tăng. Chính sự liên thuộc như thế đã khiến Đức mở
cuộc tấn công khơi mào cho Đại Chiến Thứ Nhất năm 1914 vì Đức e sợ cả Pháp lẫn
Anh không chịu bán thực phẩm, quặng sắt và dầu khí cho mình để phát triển kinh
tế. Đây cũng không chỉ giản dị là sự nghi ngờ hoang tưởng bên phía Đức: Cả Pháp
lẫn Anh đều công khai thảo luận việc cấm vận trước khi chiến tranh bùng nổ, rất
giống đường lối các phân tích gia ngày nay như ông T.X. Hammes thuộc Đại học Quốc
phòng đưa ra khuyến nghị “bóp nghẹt kinh tế” Trung cộng trong trường hợp biến cố
xung đột xảy ra.
Học giả Aaron
Friedberg thuộc Đại học Princeton
có đưa ra vài ghi nhận dè dặt đáng nhắc lại nơi đây: “Những quốc gia có quan hệ giao thương tốt không nhất thiết trở thành đối
tác chiến lược và chính trị tốt; lịch sử chứng minh điều đó, những quốc gia có quan hệ giao thương tốt lại thường đi đến
chỗ gây chiến với nhau.”
Về tranh nghị các quốc gia không dám mạnh tay vì
nguy cơ chiến tranh hạt nhân sẽ tiêu diệt cả hai phe7 thì ông Ashley Tellis thuộc viện Carnegie đưa ra lập luận phản bác
như sau. Ông nói Trung cộng ngày nay trên khán trường quốc tế sở hữu một lực lượng
nguyên tử khả tín, nguy cơ một cuộc chiến tranh nguyên tử có thể là không lớn,
nhưng thật ra nguy cơ một cuộc chiến tranh quy ước lại gia tăng “vì Trung cộng đã và
đang liên tục tiếp thu những khả năng ngăn chặn không cho Hoa Kỳ nhảy vào trợ
giúp các quốc gia bạn ở Châu Á.”
Ông Toshi
Yoshihara giải thích tính nghịch lý “bình ổn-bất bình ổn” nằm bên dưới nguy
cơ ấy như sau: “Nếu
Trung cộng có khả năng áp đặt chiến lược chống xâm nhập của họ, rất có thể họ sẽ
tạo được một không gian chiến lược để chĩa mũi tiến công trong một cuộc chiến
tranh quy ước tại vùng biển Châu Á. Và do đó, có vũ khí nguyên tử trong
tay không nhất thiết có nghĩa là đảm bảo không có chiến tranh. Nó chỉ giản dị mở
ra khả thể cho những loại chiến tranh khác.”
Nếu chúng ta không thể trông mong vào mối quan hệ hỗ
tương kinh tế, vào sự liên thuộc giao thương, vũ khí hạt nhân cũng không làm Trung
cộng giảm bớt hung hăng, vậy còn lại là con đường nào khác khả dĩ duy trì hòa
bình? Chắc hẳn có người bảo là thay vì xoay trục sang Châu Á, Hoa Kỳ nên ở lại
nhà và phó mặc vùng đất ấy cho Trung cộng. Nhưng theo luận điểm của ông Gordon Chang, người phụ trách chuyên mục
của tạp chí Forbes, thì
“tuyến phòng thủ
địa đầu của Hoa Kỳ không phải là Alaska hay California mà là Nam Hàn và Nhật Bản,”
và những căn cứ tiền đồn đóng vai trò chiến lược quan yếu trong công tác phát
hiện và ngăn chống hỏa tiễn. Ở đây, chúng ta cũng đừng quên Hoa Kỳ từ hồi nào đến
giờ vẫn là một quốc gia sở dĩ hùng cường là nhờ ngoại thương; một Châu Á tự do
ra vào là những thị trường thuộc loại phát triển nhanh nhất trên thế giới.
Không chấp nhận giải pháp rút lui vào vòng cô lập, vậy
thì chính sách của chúng ta phải như thế nào? Bất kỳ câu trả lời nào đều phải bắt
đầu bằng nhận định sau: Nếu Hoa Kỳ chỉ tìm cách bắt kịp Trung cộng theo kiểu
“mày một viên đạn, tao cũng một viên đạn” thì kết quả rất có thể sẽ là một cuộc
chạy đua võ trang càng lúc càng găng, và rốt cuộc một hoặc cả hai bên cùng kiệt
quệ, hoặc sau cùng đi đến chỗ choảng nhau chí tử và tận diệt.
Ông Michael
Pillsbury, một phân tích gia thuộc Ngũ
Giác Đài đưa ra lời cảnh báo tỉnh táo như sau: “Sẽ chẳng có cách nào ngăn chống nổi một nghìn
cái hỏa tiễn chống tàu chiến của Trung cộng chĩa vào mặt chúng ta. Thế
giới chúng ta đang bước vào là thế giới trong đó nền kinh tế của Trung cộng đã
qua mặt chúng ta và đang lớn mạnh để có ngày to gấp hai chúng ta. Điều đó có
nghĩa là nếu muốn, họ có thể dễ dàng gia tăng ngân sách binh bị nhằm tập trung
vào chúng ta và ngân sách này có thể cao hơn chúng ta.”
Làm thế nào để vị Tổng thống kế nhiệm đối phó với
tình trạng Trung cộng bao vây càng lúc càng quyết liệt đây? Câu trả lời nằm nơi
khái niệm mà chính người Trung cộng gọi là “tổng hợp quốc lực,”8 một
khái niệm có căn nguyên sâu xa bắt rễ từ câu nói nổi tiếng của Tôn Tử, “Không đánh mà làm khuất phục được quân của
người, ấy là người giỏi ở trong những người giỏi.”9 Ông Ngô
Xuân Thu [Wu Chunqiu] thuộc Học viện Khoa học Quân sự Trung cộng thì nói như
sau: “Bất chiến tự nhiên thành không có
nghĩa là hoàn toàn không có chiến tranh. Chiến tranh mà người ta phải chiến đấu
là chiến tranh chính trị, chiến tranh kinh tế, chiến tranh khoa học và kĩ thuật,
chiến tranh ngoại giao. Mặc dù sức mạnh quân sự là một yếu tố quan hệ, trong thời
bình thông thường nó chỉ được dùng như một lực lượng hỗ trợ.”
Thí dụ, hãy thử xem xét sức mạnh tổng hợp của quốc
gia tối cần chỉ để xây dựng những lực lượng quân sự hỗ trợ. Một sức mạnh tổng hợp
như thế phải bắt đầu bằng một nền kinh tế mạnh có khả năng vừa sản xuất vũ khí
vừa thu thuế để trang trải những khoản kinh phí khổng lồ. Tuy nhiên, để có một
nền kinh tế mạnh, quốc gia phải có một lực lượng lao động có có kỹ năng cao –
và do đó, một nền giáo dục mạnh tương đương.
Cùng lúc, những tiến bộ nhanh chóng về sáng kiến và
kỹ thuật chỉ có thể xảy ra trong một hệ thống tài chính dồi dào đầu tư vào các
công trình nghiên cứu và phát triển, một chế độ thuế khóa nâng đỡ các hoạt động
kinh doanh. Và không nền kinh tế nội địa nào có thể phát triển nếu không có tự
do đi vào các thị trường nước ngoài. Để đi vào những thị trường như thế đòi hỏi
chẳng những một liên minh mạnh giữa những đối tác mà còn sự tự do hải hành. Điều
sau này ngay lập tức bẻ lái tiến trình tổng hợp sức mạnh trở lại trọng điểm
hàng đầu là làm thế nào để có một lực lượng quân sự hùng mạnh hầu giữ vững và rộng
mở hải không phận cho việc giao thương.
Ông David
Lampton, một học giả thuộc Đại học
John Hopkins, nói rằng Trung cộng sẽ tôn trọng Hoa
Kỳ nếu sức mạnh quốc gia của Hoa Kỳ được duy trì ở đường lối toàn diện như vậy.
Tuy nhiên nếu Hoa Kỳ suy thoái thì sẽ vô cùng khó khăn đương đầu với Trung cộng.
Song, một quốc gia với một nền kinh tế thịnh vượng,
một hệ thống giáo dục hoàn hảo, một trật tự chính trị bình ổn, một kho tài
nguyên thiên nhiên phong phú, một lực lượng lao động tốt, mà binh bị yếu kém
thì vẫn là miếng mồi ngon cho bất kỳ kẻ thù địch võ trang đầy đủ nào với ác tâm
xâm lấn, chiếm đoạt. Ông Patrick Cronin
thuộc Trung tâm Tân Bảo an Quốc gia
miêu tả một “lực
lượng cân bằng cho thế kỷ XXI” mà Hoa Kỳ cần
có “ở những số lượng cần thiết” để
duy trì hòa bình bằng sức mạnh quân sự như sau: “Tôi cần hàng không mẫu hạm, phi cơ, tàu ngầm. Tôi cần kỹ thuật tàng
hình, tôi cần khả năng tuần tra các tuyến hàng hải. Cùng lúc tôi cần tiếp tục đầu
tư vào kỹ thuật tin học, kỹ thuật không gian và phi cơ không người lái, kể cả
loại phi cơ không người lái tầm xa bởi vì những kỹ thuật đó toàn là những thứ
có thể ‘thay đổi cuộc chơi.’”
Ông Aaron
Friedberg thuộc Đại học Princeton
cũng tỏ ý quyết liệt không kém khi đưa ra quan điểm phải
giảm bớt nhược điểm của những căn cứ tiền đồn của Hoa Kỳ ở Châu Á bằng một chiến
lược tứ giác gồm: làm cho cứng, phân tán mỏng, đa dạng hóa, và tái cấu trúc lực
lượng.
“Làm cho cứng”
là di chuyển những căn cứ hậu cần và kho vũ khí xuống lòng đất thật sâu, máy
bay cũng thế, tất cả phải được đưa xuống hầm an toàn, rồi đổ xuống hàng tấn xi
măng cùng hàng tấn thép để tăng độ cứng của phi đạo, nhà cửa, doanh trại, cầu
tàu.
“Phân tán mỏng”
là tái bố trí cả căn cứ địa lẫn tàu chiến, làm thế nào để Trung cộng vấp phải
nhiều khó khăn khi nhắm bắn mục tiêu. Thí dụ, ông Toshi Yoshihara đưa ra đề nghị, thay vì
duy trì hai căn cứ to đùng sờ sờ trước mắt là Okinawa và Guam thì hãy dùng quần
đảo Ryukyu của Nhật Bản và rải mỏng thành một quần thể những căn cứ nhỏ hơn nhiều.
“Đa dạng hóa”
là mở rộng những căn cứ và cơ sở sang những quốc gia mà sự có mặt của Hoa Kỳ
chưa đông đảo, như Phi Luật Tân và Việt Nam. Ông Dan Blumenthal nói như sau: “Nếu giới lãnh đạo Trung cộng phải suy nghĩ về việc nhắm bắn
mục tiêu trên nhiều quốc gia khác nhau, điều đó sẽ khiến họ chùng bước hơn là
chỉ vài căn cứ ở Nhật Bản hay một hàng không mẫu hạm.”
Ông Friedberg cũng muốn xoay bàn chiến tranh bất đối
xứng và chiến lược ngăn vùng về phía Trung cộng bằng phương cách “tái cấu trúc lực lượng.” Về điểm này
ông James Holmes đưa ra khuyến nghị
không dựa vào hạm đội tác chiến hàng không mẫu hạm nữa, vốn là bảo bối của các
sếp lớn Hải quân nhưng nằm ỳ trên biển cả cho người ta bắn như vịt trời, mà nên dựa vào hạm đội tàu ngầm lớp Virginia chuyên tấn
công, bố trí tại những điểm nghẽn trọng yếu dọc theo hai tuyến mắt xích quần đảo
thứ nhất và thứ hai.
Về các hệ thống vũ khí khác, một trong những vấn đề
lớn nằm trong chương trình nghị sự của vị Tổng thống nhiệm kỳ sắp tới có lẽ là
một oanh tạc cơ chiến lược mới. Hôm tháng Mười vừa qua, công ty Northrop
Grumman ký một hợp đồng 21,4 tỉ đô la để điều nghiên dự án cho ra đời một chiếc
oanh tạc cơ mới. Nhưng câu hỏi chưa được trả lời là cuối cùng sẽ có bao nhiêu
chiếc, và người kế vị ngồi trong Tòa Bạch Ốc năm 2017 sẽ phải dứt khoát trả lời
câu hỏi này. Ông Michael Auslin thuộc
Học viện Kinh doanh Hoa Kỳ là người ủng
hộ dự án, ông nói:
“Chiếc oanh tạc cơ B-52 mới nhất của chúng ta cũng đã 50 tuổi
rồi và chúng ta có đến ba thế hệ – ông, cha, con – cùng lái một chiếc
máy bay. Đấy là loại máy bay tốt, nhưng chúng không thể nào thoát hiểm khi phải
đương đầu với những hệ thống phòng thủ hỏa tiễn tự động ngày nay. Thêm vào đó,
chúng ta chỉ có vỏn vẹn 20 chiếc B-2, và chúng cũng chẳng mới mẻ gì. Bởi thế chúng ta cần chế tạo và sản xuất một loại oanh tạc
cơ mới, và thật nhiều chiến đấu cơ F-35 để khai quang mặt đất và bầu trời trong
trường hợp cần thiết. Chúng ta cần làm việc này bởi những lý do quân sự
cũng như chính trị. Nó sẽ giúp đem lại sự bình ổn cho Châu Á nhiều hơn chứ
không kém đi.”
Nhìn xa hơn những bước cụ thể này, Giảng viên Phillip Karber thuộc Đại học Georgetown kêu gọi một chính sách “phản ứng đối ứng” kiểu vis-à-vis đối
đầu với Trung cộng: “Các
ông tính chuyện tài binh cắt giảm lực lượng đi, lúc đó chúng tôi cũng sẽ cắt giảm
lực lượng của chúng tôi. Còn các ông chủ trương gây hấn có những hành động như
sản xuất thêm hỏa tiễn và đe dọa các căn cứ cùng đồng minh của chúng tôi thì
chúng tôi sẽ có phản ứng ngay.”
Trớ trêu thay, những lời răn đe như thế nhắc nhở đây
là thời điểm tốt để bắt tay với đồng minh, song những lời hứa hẹn suông và những
quan hệ bị bỏ quên đã làm phung phí cơ hội một cách liều lĩnh và ngu xuẩn.
Cứ nhìn vào sự
thất bại của chính sách “xoay trục” sang Châu Á của chính quyền Obama thì
biết. Được long trọng đề xuất năm 2011, theo dự kiến, Ngũ Giác Đài sẽ gia tăng
60 phần trăm tổng số tàu chiến thuộc hạm đội Thái Bình Dương. Tuy nhiên, vì hạm
đội ấy càng lúc càng thu nhỏ nên vào năm 2020 tổng số tàu chiến Hoa Kỳ trong
vùng sẽ ít hơn con số lúc chính sách được công bố năm 2011. Ông James Holmes mỉa
mai, “Cứ xét những tín hiệu ngoại giao và
ngăn chặn thì chuyện xoay trục xem ra có vẻ như trò trẻ con chơi bóng.”10
Ông Pat
Mulloy, cựu thành viên của Ủy ban
Xét duyệt Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung, còn đi xa hơn một bước khi ông phê
bình chính sách “xoay trục” xem-quân-sự-là-chính của Tòa Bạch Ốc. Ông bảo chiến
lược xoay trục ấy để lộ ra sự thiếu hiểu biết cơ bản của Hoa Kỳ về yêu cầu cấp
bách tái thiết sức mạnh quốc gia tổng hợp. Ông đưa ra nhận định sau: “Tổng thống bảo chúng ta phải xoay trục sang
Châu Á vì Trung cộng đang vươn lên. Nhưng Trung cộng vươn lên vì chúng ta để
cán cân mậu dịch nghiêng hẳn về phía Trung cộng. Do đó, phải chăng sẽ hợp lý hơn nhiều nếu chúng ta quân bằng cán cân ấy bằng
cách chấm dứt ngay tình trạng giới tiêu thụ Mỹ tiếp tục nuôi cho Trung cộng đi
lên? Đấy mới là phương cách xoay trục sang Châu Á thật sự thông minh.”
Để chống đỡ một cách hòa hoãn những thách đố khó
khăn về các vấn đề kinh tế và an ninh nghiêm trọng gây nên bởi sự tiến bộ nhanh
chóng của Trung cộng, trước hết phải có sự đồng thuận chính trị. Tuy thế, sự đồng
thuận như thế rất khó thực hiện trong một nền dân chủ mở nơi những nhóm tranh
giành ảnh hưởng kinh tế chia nhau đặc quyền trong việc buôn bán với Trung cộng,
những nhóm “chính trị hành lang” sẽ tranh giành lẫn nhau chứ không chịu ngồi
chung bàn để cùng hướng về một mục đích chung. Thêm nữa, trong khi chính phủ độc
tài Trung cộng có toàn quyền dùng báo chí truyền thanh truyền hình làm cái loa
cho luận điểm của mình thì giới truyền thông Tây phương và các trường đại học Hoa
Kỳ đều tự áp đặt một chế độ kiểm duyệt.
Sự thật là, “căn nhà chia rẽ” này đã từ
lâu giải thích tại sao các nền dân chủ Tây Phương, nhất là Hoa Kỳ, đã tỏ ra vô
cùng chậm chạp phản ứng lại một Trung cộng hận thù ấp ủ nhất quyết tiến lên chiếm
lĩnh vai trò độc bá thế giới.11 Tuy
nhiên, nếu tình trạng vùi-đầu-xuống-cát này tiếp diễn mãi thì kết cuộc của câu
chuyện e là rất tệ.
Peter
Navarro, Ph.D.,
––––––––––––––––––
Chú thích của người dịch:
1 Thucydides
Trap: Nhà chính trị học người Mỹ Graham Tillett Allison (sinh 1940) đề xuất thuật
ngữ này để ám chỉ nước cờ một quốc gia đang tiến lên địa vị hùng cường (như Trung
cộng) lừa bẫy bằng cách gây mối quan ngại cho một quốc gia khác hùng mạnh và độc
bá từ lâu (như Hoa Kỳ). Từ quan ngại sẽ dẫn đến vận động chiến tranh. Allison
mượn điển tích cuộc chiến giữa hai trung tâm quyền lực thời cổ đại Hi Lạp là
Athens và Sparta.
2 Ý thức này
được nhà văn Lỗ Tấn dùng làm mô-típ chính trong cuốn truyện vừa AQ
chính truyện viết năm 1921. Nhân vật AQ lúc nào mở miệng cũng chê bai
kẻ khác nhưng bị tất cả mọi người trong làng từ trên xuống dưới làm nhục mà tự
mình thì không biết nhục. AQ là ẩn dụ ám chỉ một nước Trung Hoa phong kiến hèn
kém bị liệt cường xâu xé, làm nhục. Ý thức này ăn sâu tâm khảm người Tàu suốt
hai thế kỷ qua.
3 Bãi đá ngầm
Macclesfield Bank người Tàu gọi là Trung Sa (Zhongsha) quần đảo, và bãi cạn
Scarborough Shoal của Phi Luật Tân là Hoàng Nham Đảo (Huángyán Dăo).
4 Thuật ngữ
quân sự “chống xâm nhập” và “ngăn vùng” được tạm dịch từ cụm từ tiếng Anh
“anti-access” và “area-denial”, thường được viết tắt là A2/AD.
5 Hệ thống lực
đẩy không tùy thuộc không khí (Air-independent propulsion systems), tàu
ngầm chạy bằng diesel và điện trang bị hệ thống máy móc hiện đại này có khả
năng lặn dưới biển lâu hơn.
6 Southern
Tibet.
7 Nguyên
vế câu văn này dịch thoát từ thuật ngữ chính trị “nuclear deterrence”, một
chủ thuyết quân sự đề xuất vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Vì sức tàn phá của bom hạt nhân là vô cùng khủng khiếp, do đó theo chủ thuyết
này, một lực lượng nguyên tử nhỏ yếu hơn vẫn có thể cầm chân được phe địch nếu
lực lượng được bảo vệ kỹ càng, không bị thiệt hại nặng nề trong một cuộc tấn
công bất thần. Nó là chiến lược ngăn ngừa, răn đe phe địch không được vọng động
vì nếu chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai cùng chết. Ý niệm hệ quả của chủ thuyết này là MAD (Mutual
Assured Destruction).
8 “Tổng hợp quốc lực” là một khái niệm mới, gần đây luân
lưu khá sâu rộng trong giới lãnh đạo và học giả Trung Hoa, dịch sang tiếng Anh
là Comprehensive National Power. Khi dịch sang tiếng Việt, tôi trở
lại Hoa văn dưới dạng Hán-Việt.
9 Trong nguyên tác, vế câu tiếng Anh là “to
subdue the enemy without fighting is the acme of skill.” Khi dịch sang tiếng
Việt, thay vì dịch sát nguyên văn, tôi mượn câu văn trong thiên Mưu Công của
Tôn Tử Binh Pháp. Trong phép dụng binh, Tôn Tử nhấn mạnh đến mưu mẹo chiến lược
để chống địch chứ không chủ trương dùng sức mạnh quân sự. Tôn Tử mở đầu thiên
Mưu Công với câu nói: “Phàm dụng binh chi pháp, toàn quốc vi thượng, phá quốc
thứ chi,” mà có thể hiểu là “Trong phép dụng binh, khiến cho toàn bộ nước địch
đầu hàng là thượng sách, còn đánh cho tan tành nước ấy chỉ là thứ sách.”
10 Ông
Holmes dùng cụm từ “bush-league” để mỉa mai chính sách “xoay trục” Châu Á của
chính quyền Obama. Bush-league là tên gọi chung các liên đội bóng chày của
thanh thiếu niên Mỹ.
11 Ở đây tác
giả sử dụng thuật ngữ “revanchist” để gọi đích danh Trung cộng. Nguyên vế
sau câu văn tiếng Việt này tán rộng ý nghĩa của thuật ngữ. “Revanchism”
(từ gốc revanche tiếng Pháp có nghĩa là trả thù) là một chủ
thuyết chính trị kêu gọi lòng yêu nước để phục hưng quốc gia, tinh thần dân tộc,
sự thịnh vượng, v.v. sau khi bị thua trận, mất đất đai vào tay ngoại nhân. Gọi Trung
cộng là revanchist, trong mắt nhìn của tác giả, Trung cộng sẽ không
từ bỏ bất cứ phương tiện nào để đạt vai trò độc bá trên thế giới vì tâm thức
“Thiên triều” và mối thù suốt trên thế kỉ bị Tây Phương và Nhật Bản giày xéo.
Dịch giả gửi BVN.