Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN
Phạm Cao Phong (BBC Tiếng Việt)
Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp, kết hợp với Tòa thị chính Paris
đang cho ra mắt công chúng tại Petit Palais (Paris) triển lãm «Nghệ thuật hòa bình:
Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp».
Bản
quyền hình ảnh PHAM CAO PHONG Image caption Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp kết
hợp với Tòa thị chính Paris tổ chức triển lãm "Nghệ thuật hòa bình: Những
bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp"
Đây là lần đầu tiên những kỷ vật hiếm hoi được giữ
gìn từ Thế kỷ 4, những tranh, tượng của những danh họa, nghệ sĩ, văn bản, nghi
chép nói về con đường gieo mầm, gặt hái hòa bình từ những xung đột, chiến
tranh của ngoại giao Pháp ra mắt công chúng.
Trong số những tài liệu quý, tôi thấy có bản sao
'Công chứng' với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với
Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502.
Ngoài ra là 'Văn bản đầu hàng' Đế chế Đức ký kết chấm
dứt chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1917, hoặc 'Biên bản trao đổi' giữa
Hitler và đại sứ Pháp tại Berlin trước ngày nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Người ta cũng có thể thấy cẩm nang viết và tra cứu
mật mã những văn bản ngoại giao, tài liệu mật giai đoạn Hồng y Richelieu,
cùng thời với chàng l'Artagnan trong tiểu thuyết 'Ba chàng lính Ngự lâm' của
Alexandre Dumas.
Bản
quyền hình ảnh PHAM CAO PHONG Image
caption Bản sao 'Công chứng' với bút
tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle
Tây Ban Nha năm 1502
Một tài liệu độc đáo khác là bức thư viết trên vàng
lá của vua Xiêm (Thái Lan) Mongkut-Rama IV gửi Hoàng đế Napoléon III ngày
17/03/18615 (Ảnh 5).
Đại sứ Xiêm đã trình quốc thư độc đáo đó kèm nhiều tặng
phẩm quý tận tay Napoléon III và hoàng hậu Eugénie tại lâu đài Fontainebleau
ngày 27/06/1861.
Với Việt Nam, có hai văn bản nên ngược dòng lịch sử,
để ghi nhận và suy ngẫm.
Văn bản thứ nhất là 'Hiệp định đình chiến Geneve
(Thụy Sĩ) 1954', nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương (Việt Nam,
Lào, Campuchia).
Văn bản thứ hai là 'Hiệp định Hoàng Phố 1844'.
Ai thắng ai ở Geneve 1954?
Văn bản Hiệp Định
Geneve trưng bày bản gốc tiếng Pháp và tiếng Việt, các trang liên kết với nhau
bằng 2 dải dây lụa xanh trắng, trang bìa gắn dấu xi chữ ký Cộng Hòa Pháp và quốc
huy của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Bản tiếng Việt
đựng trong bìa carton mầu vàng nhạt, mầu những bức tường cổ Hà Nội. Bản tiếng
Pháp có bìa mầu hồng.
Đằng sau những
cặp bìa chứa chấp những mưu mô đổi chác, những giọt nước mắt, nụ cười và bi kịch.
Người anh cả Nga
đã đi đêm, khi Tướng Giáp còn chưa hất tung những chàng lính dù Pháp như nướng
những chiếc bánh crêpes bằng những khẩu đại bác của mình.
Bản quyền hình ảnh
PHAM CAO PHONG Image caption Bản gốc 'Hiệp định đình chiến Geneve (Thụy
Sĩ) 1954' nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương được trưng bày tại
triển lãm ở Paris
Tháng 1/1954 tại
Berlin, trong những bàn cãi về thống nhất nước Đức, Ngoại trưởng Nga Vyacheslav
Molotov (1890-1986) ngỏ ý giúp Pháp thu xếp đình chiến tại Đông Dương, đổi lại
việc Pháp rút ra khỏi khối 'Cộng đồng phòng thủ chung châu Âu'.
Lẽ ra ủng hộ phái
đoàn Phạm Văn Đồng tại Geneve, người anh thứ hai Trung Hoa lại 'thân thiết, gần
gũi' với Pháp, kẻ thất bại trên chiến trường đang cháy lòng tìm kiếm một lối
thoát khả thi.
Đọc hồi ức của
các tướng lĩnh và sử gia Pháp giai đoạn này, người Việt sẽ đánh giá lại món ăn
cay sực gia vị 'nghệ thuật ngoại giao Paris' đã dọn cho họ ra sao.
Giới quân sự
Pháp rền rĩ trước canh bạc trắng tay, rủa những nhà ngoại giao chết nghẹn đi
không nghĩ rằng phái đoàn Georges Bidault đến Thụy Sĩ đã cứu thoái cho đạo quân
viễn chinh mất tinh thần chiến đấu, tan hàng còn hiệu quả hơn những chiến dịch
giải cứu Atlante, Arréthus hay Axelle.
Các nhà ngoại
giao Pháp lọc lõi, hồng hào, tươi tắn như thể họ còn những con bài sáng giá, mà
thật ra đã bị dồn đến chân tường.
Ngày 19/06/1954
lên nhậm chức, Thủ tướng Pierre Mendes France đã hứa trước quốc dân sẽ tái lập
hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng, muộn nhất là vào ngày 20/07.
Song kịch hạn
chót của thời điểm, các cuộc thương lượng vẫn dang dở. Để cho chính phủ Pháp
không bị đổ vì hứa suông cũng như tôn trọng hình thức công pháp quốc tế, tại
phòng đàm phán 'Palais des Nations' ở Geneve, hai chiếc kim đồng hồ giữ nguyên ở
số 12.
Sự thật là sang
2 giờ ngày 21/7/1954, Hiệp định đình chiến về Việt Nam và Lào mới được đại diện
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký. Hiệp định đình chiến ở Campuchia được ký vào cuối
buổi sáng 21/07. «Tuyên bố cuối cùng» mãi đến chiều ngày 21/07 mới được hội nghị
thông qua.
Tháng
10/1979, nghĩa là sau một phần tư thế kỷ, Hà Nội công bố Bạch thư «Sự thật về
quan hệ Việt Nam- Trung Quốc 30 năm qua».
Phải đợi những
chiếc xe tăng Bát Nhất chọc thủng phòng tuyến Kỳ Lừa và biển người của Giải
phóng quân Trung Hoa tràn sang giết chóc, những dòng chữ như thế này mới được
viết:
«Pháp đến Geneve nhằm đạt được một cuộc ngừng
bắn theo kiểu Triều Tiên để cứu đội quân viễn chinh, chia cắt Việt Nam, duy
trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Rõ ràng lập trường của Trung Quốc
khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp với lập trường của
Pháp.»
Các nhà đàm phán
Việt Nam thiếu cái hoài nghi lịch lãm nhưng lại lành mạnh đủ mức với những gì
những nhà làm chính trị phải có để nhìn ra những cạm bẫy hai khối dành cho họ.
Họ dèm pha và khinh miệt đối phương. Căn bệnh tự phụ, răn dạy đạo đức luôn
luôn cho rằng mình đúng, những suy nghĩ của họ là bất di, bất dịch.
Người ta chế nhạo
giọt nước mắt của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ của Quốc gia Việt Nam, tiền thân của
Việt Nam Cộng hòa sau này, người đã không chịu đặt bút ký vào văn bản chia
đôi Việt Nam mà dòng sông có tên Hiền Lương như nụ cười nhạo báng, trớ trêu,
chẳng 'hiền' mà cũng chẳng 'lương' trong suốt 30 năm.
Không ai nghĩ rằng
đó là những giọt nước mắt đầu tiên nhỏ xuống sinh mạng 5 triệu người Việt Nam
và 58.000 quân nhân Mỹ sẽ chết.
Song đó chưa phải
là giá đắt nhất.
Đến bây giờ người
Việt đối thoại với cựu thù Pháp, Mỹ dễ hơn đối thoại giữa người Việt có quá
khứ khác nhau. Họ hỏi nhau đến từ đâu, Nam hay Bắc trong câu hỏi đầu tiên.
Hiệp định Hoàng Phố Pháp-Trung 1844 và vị thế Việt Nam
Bản quyền hình ảnh
PHAM CAO PHONG Image caption Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng
bày tại bảo tàng
Bản quyền hình ảnh
PHAM CAO PHONG Image caption Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng
bày tại bảo tàng
Hiệp ước
Pháp-Hoa, ký ngày 24/10/1844 giữa Hoàng đế Pháp Louis Phillippe và Hoàng đế nhà
Thanh được gọi là 'Hiệp ước hữu nghị và thương mại' trong nguyên bản, thực chất
là một trong những dạng hiệp ước bất bình đẳng. Nhà Thanh phải nhượng quyền
buôn bán tại năm hải cảng, chấp nhận hiện diện của Pháp tại Trung Hoa, mở đầu
tiến trình thực dân hóa của Pháp tại châu Á.
Ngay từ năm
1842, Trung Hoa đã bị Anh, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Bồ Đào Nha chẹt cổ bằng hàng loạt
các hiệp ước lép vế như Hiệp ước Nam Kinh (1842), Hố Môn (1843), Vọng Hạ,
Thiên Tân (1844), Yên Đài (1876), Mã Quan (1895)…
Tiến thêm một
bước nữa, sau Hiệp ước Hoàng Phố đúng 40 năm, Paris ký với nhà Nguyễn Hòa ước
Pháp-Việt Giáp Thân, 1884, còn gọi Hòa Hiệp ước Patenôtre, đặt chế độ bảo
hộ lên Việt Nam.
Nhìn những văn bản
được trưng bầy tôi có dòng suy nghĩ.
Nước
Pháp đã thở phào nhẹ nhõm khi thôn tính nền độc lập của Việt Nam, nước được
họ coi là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á, một thế lực lớn ở Châu Á sau chiến thắng của Nguyễn
Ánh trước nhà Tây Sơn.
Trận thủy chiến
thư hùng Thị Nại hồi 1801, quân chúa Nguyễn đánh tan hạm đội Tây Sơn gồm 1.800
chiến thuyền, 600 đại bác và 20.000 binh sĩ của Đại tư đồ Vũ Văn Dũng, đã tạo uy
danh cho Vua Gia Long.
Các cường quốc
phương Tây chủ yếu sử dụng 'chính sách pháo hạm' bắt nạt Trung Hoa, Nhật Bản
phải dè chừng. 'Qua sông phải lụy đò', sợ cũng phải.
Có phải vì vậy
mà Việt Nam bị bắt nạt chậm hơn Trung Hoa đến gần nửa thế kỷ?
Uy dũng Tây Sơn: Trên chiến trường và trong cuộc đấu ngoại giao
Bản
quyền hình ảnh WOLFGANG KAEHLER/ LIGHTROCKET
VIA GETTY IMAGES Image caption " Những trận thắng oanh liệt của Vua Quang
Trung khiến nhà Thanh phải e sợ, và khiến nước Việt có tư thế bình đẳng với
Trung Hoa"
Năm Kỷ Dậu,
Quang Trung đánh tan quân Thanh cũng là năm Cách mạng Pháp 1789.
Nước Pháp chắc
cũng ngần ngại nếu sau khi đặt chế độ bảo hộ lên đất Việt lại phải cử một
phái đoàn ngoại giao 'kiểu Nguyễn Huệ' sang Trung Hoa.
Họ cũng sẽ run,
sẽ sợ 'bút sa không phải gà chết mà nước mất' nếu phải đề cử võ tướng Vũ Văn
Dũng giỏi múa kiếm, phá thành hơn cong lưỡi làm thơ, bút đàm làm trưởng đoàn
soán chỗ quan văn Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ sang nghị hòa với Càn Long tại Bắc
Kinh 18/1/1789.
Họ cũng sẽ thấy
bức thư gửi 'Thiên triều' ngang ngạnh quá, đi giảng hòa mà ngạo nghễ ngang tàng,
như lên lớp cho Trung Hoa về nghệ thuật chiến tranh «quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính
quý ở chỗ tinh nhuệ không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo,
chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu... ».
Lần thứ hai phái
đoàn Phạm Văn Trị đi Tầu 1/1790 vẫn có kẻ 'Vai năm thước rộng, thân mười thước
cao', 'Chinh Nam Đại tướng quân' Ngô Văn Sở, dũng tướng được Nguyễn Huệ gọi là
'nanh vuốt của ta', người đã chém đầu Đề đốc Hứa Thế Hanh và Tả dực Thượng Duy
Thăng, bức tử Sầm Nghi Đống, sang đòi bỏ lệ cống người vàng cúng cái đầu Liễu
Thăng rơi ở ải Nam Quan.
Lần thứ ba đi sứ
cũng vẫn là võ tướng Vũ Văn Dũng với nhiệm vụ rõ ràng: «Sắc truyền cho Hải Dương Chiêu viễn Đô đốc tướng
quân Dực vận công thần Vũ quốc công được gia phong chức chánh sứ đi sứ nước
Thanh, được toàn quyền trong việc đối đáp tâu xin hai tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc tức."
"Phải thận trọng đấy! Hình thế trong chuyến dụng
binh đều ở chuyến đi này. Ngày khác làm tiên phong (đánh nước Thanh)
chính là khanh đấy. Kính thay sắc này.»
Triều đại Việt
nào làm ngoại giao tế nhị, tinh tế như thế?
Bản
quyền hình ảnh HOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGE Image caption
Triều đại Tây Sơn không chỉ đánh đuổi giặc ngoại xâm từ phương Bắc mà
còn tỏ thái độ cứng rắn trong quan hệ ngoại giao với Trung Hoa
Những người chơi
đồ cổ Hà Nội rất vui khi kiếm được một món đồ nào đó của triều đại này. Một
triều đại được họ cho là 'nhân văn, nhân ái'. Triều đại không muốn nghe nhắc đến
tên một dòng sông đất Việt, không muốn nhớ đến võ công một nước bé tý đã thắng
đội quân Mông Cổ mà chính Trung Hoa đã phải quỳ gối hồi Thế kỷ 13.
Nước Pháp kỷ
niệm 200 năm Cách mạng 1789 đã từ chối lời ngỏ ý của tướng Giáp được tham dự
ngày hội trên Quảng trường Concorde. Đất nước 'ánh sáng, văn minh' đi gần sang
Thế kỷ 21 mà còn nặng lòng, ấm ức với người thắng họ ở Điện Biên Phủ.
Càn Long 'lú'
không ngửi thấy mùi thuốc súng còn vương trên chiến bào của Võ Văn Dũng, Ngô
Văn Sở? Quan binh chết nghẽn dòng Nhị Hà ai cũng sướng 'làm quỷ nước Nam, hơn
làm vua đất Bắc', chẳng kẻ nào lê gối về khóc với Bắc Kinh?
Định mệnh cho
thêm Quang Trung một vài năm, đất Việt sẽ có một công chúa nhà Thanh đôi mày
xanh chiêm bao về làm dâu với hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây như nhượng địa
'xin đểu' kiểu Hong Kong, Ma Cao?
Và lúc đó, Việt Nam chứ không phải là Pháp sẽ ký tại
Quảng Tây Hiệp ước Hoàng Phố, trong tiếng Anh gọi là Whampoa này. Có thể còn
trước hơn rất nhiều?
Mong ước của Quang Trung có 10 năm yên ổn phát triển
thì "mình sợ gì nó (chỉ Trung Hoa)" không có.
Việt Nam chưa từng có một cơ hội như Pháp ký với
Trung Hoa một hiệp định chặn họng tương tự.
Sau chiến thắng khẳng định nền độc lập
1789, nước Việt có tư thế bình đẳng với Trung Hoa. Song lợi thế này không được
khai thác và tiếp nối sau khi Quang Trung mất.
Việt Nam đã thiếu tự tin để cuối cùng phải
nhận một bản hiệp ước mất chủ quyền như Hòa ước Patenôtre?
Người Pháp khi đàm phán về ba tỉnh miền Nam nhủ thầm
"nếu đòi được chiến phí vài triệu frances thì quá tốt rồi", thì họ lại
được cả ba vùng đất.
Việt Nam là một trong ba trường hợp hiếm
hoi như Nga, Hoa Kỳ từ Thế kỷ 17 mà sự mở rộng bờ cõi không bị lịch sử trừng
trị và lụn bại.
Nước Pháp có trọn vẹn Waterloo, Điện Biên Phủ, song
vẫn giữ vị thế là một trong năm cường quốc. Nên học gì ở họ để 'dân giầu, nước
mạnh'?
Napoleon nói: «Những
thiên tài như những mảnh thiên thạch chói sáng dẫn dắt lịch sử».
Đất Việt thiếu những thiên thạch để mở mặt, như họ
đã để tuột các cơ hội chăng?
Có quá nhiều giả định, nhiều 'NẾU' trong bước đường
khẳng định một quốc gia hùng cường.
Chữ 'NẾU' ấy chỉ như đám mây ngũ sắc, chiếc cầu vồng
bắc qua nền trời sau cơn mưa. Những tuấn kiệt của lịch sử hay kẻ nghèo hèn đều
không bước chân lên được chiếc cầu hư ảo để sang bờ bên kia của Định Mệnh, chỉ
còn vạt nắng trôi theo chân người của tiếc nuối, cam chịu.
Một lúc nào đó chúng ta sẽ có cơ hội được xem những
văn bản "Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam", được 'chiêm ngưỡng'
Hiệp định Thành Đô ở Hà Nội chăng, như hôm nay ở Paris?
Phạm
Cao Phong Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Paris