Vụ án Ba Sàm (3 kỳ)
Kỳ 1: Cuộc chạm trán của
những người bạn cũ
“Cuộc đấu tranh này, nếu thân nhân của những người tù mà hết
lòng vì nó thì thật sự nhà tù là một trường học cực kỳ lớn đối với chính họ. Sau
ba năm qua, tôi thấy mình đã lớn lên rất nhiều, cứng cỏi hơn rất nhiều, nhìn rõ
mọi chuyện và hiểu con người, hiểu cuộc đời hơn. Tôi đã bước qua khỏi nỗi sợ
hãi và bây giờ tôi không sợ nữa”. Bà Lê
Thị Minh Hà, vợ blogger Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), chia sẻ những kinh nghiệm
và cảm xúc của bà, nhân một năm phiên xử sơ thẩm ông Vinh và người trợ lý, cô
Thúy.
Bà Lê Thị Minh Hà gặp gỡ ông Martin
Patzelt, nghị sĩ, thành viên Ủy ban Nhân quyền Quốc hội Đức năm 2014 để vận động
sự ủng hộ cho Anh Ba Sàm. Ảnh:
Nhân vật cung cấp.
Đây là một trong rất ít lần bà Minh Hà dành thời
gian nhiều đến thế cho một tờ báo. Không phải vì bà sống khép kín hay có điều
gì khiến bà không thích báo chí, mà chỉ là do bà Hà vốn khá thận trọng.
Bà cũng thận trọng cả trong chuyện tìm người để tâm
sự và nhờ cậy giúp đỡ, đến mức nhiều người có thể nghĩ rằng bà khó gần. Ít ai
tiếp xúc gần với bà đủ để được bà chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức của một
phụ nữ có thân nhân đi tù vì “tội chính trị”, và càng không đủ để hiểu được những
khó khăn của người ở trong hoàn cảnh ấy.
Sinh năm 1958, thời trẻ, bà Lê Thị Minh Hà là một cô
gái Hà Nội học cùng trường Đại học An ninh với ông Nguyễn Hữu Vinh và Bộ trưởng
Công an hiện nay là ông Tô Lâm.
Họ là bạn cùng khóa, và điều đó tạo nên một trong những
nét kịch tính nhất của vụ án Ba Sàm: Đây là một vụ
án “bạn
bắt bạn” – Tô Lâm là một trong những người chịu trách nhiệm cao nhất
trong việc bắt Nguyễn Hữu Vinh, và một trong các luật sư bào chữa cho
ông Vinh là Trần Đình Triển thì cũng từng học cùng cả Tô Lâm lẫn vợ chồng
Vinh-Hà.
Ông Vinh là con của cụ Nguyễn Hữu Khiếu – nguyên Ủy
viên Trung ương Đảng, cựu đại sứ Việt Nam tại Liên Xô. Bà Hà cũng là con nhà
gia thế: Bà là cháu của cựu Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương. Gia đình dòng dõi,
được đào tạo bài bản trong Đại học An ninh thời kỳ tốt nhất của nó, thời trẻ bà
chẳng khác nào một tiểu thư Hà Nội.
Thế mà ở tuổi trung niên, cô tiểu thư Hà Nội ấy đã
trở thành một trong các nhân vật nổi bật nhất trong một vụ án chính trị nổi tiếng.
Sinh viên Nguyễn Hữu Vinh
của trường Đại học An ninh, đầu thập niên 70. Ảnh: Gia
đình cung cấp.
Bà đã bay từ Đức về Việt Nam để tham gia vào cuộc
chiến đấu với những gì bà cho là bất công, sai trái của hệ thống hành pháp và
tư pháp; đã tìm hiểu từng mẩu thông tin nhỏ nhất về công việc của chồng mình;
đã học nấu từng món ăn dành riêng cho người đi tù; đã nhẫn nhịn, khéo léo cả với
những quản giáo cấp thấp nhất; và đã đối mặt với một bộ máy rất biết cách kiểm
soát thông tin.
Ngày anh bị bắt
Ngày ông Nguyễn Hữu Vinh bị bắt (thứ hai, 5/5/2014)
tình cờ lại đúng là ngày đi làm đầu tiên con trai ông – Nguyễn Hữu Phúc, mà cả
nhà vẫn gọi là Bi.
Những năm ấy bà Hà đang sống ở Đức. Chủ nhật 4/5, bà
đã gọi về dặn con dâu (chị dâu của Bi) “mua
sẵn cái bánh ngọt với bó hoa để em nó đi làm về thì mấy bố con chúc mừng em”.
Nhưng cả ngày thứ hai, bà liên lạc mà không thấy ai
nhấc máy. Tới 5h chiều, quá sốt ruột, bà gọi về lần nữa mới nghe Bi nói: “Ở nhà đang xảy ra chuyện, mà con không thể
nói với mẹ được”.
“Lúc
đó tôi hiểu ngay là ông Vinh đã bị bắt” – bà Hà nhớ lại. “Làm gì có chuyện gì mà thằng bé lại không
nói với mẹ được”.
Nhà chỉ có hai anh em Tý và Bi. “Bọn trẻ còn ngây
thơ đến mức độ hỏi công an xem bố mình bị đưa đi đâu, công an bảo: ‘Cần gặp hay
làm cái gì thì đến số 7 Nguyễn Đình Chiểu’, thế là chúng nó cứ đinh ninh bố ở đấy.
Chúng bàn nhau mang quần áo cho bố, rồi mai sẽ gặp xem bố thế nào”.
Ngay sau khi biết tin chồng, bà Hà đặt vé máy bay về
nước. Ở xa đã quá lâu, bà thật sự chẳng biết chồng mình đang làm cụ thể những
việc gì, giao dịch với những ai. Bà chỉ tin chắc một điều rằng ông là một nhà
báo, có tài viết và rất yêu nước.
Bà thử theo dõi xem báo nào đưa tin về vụ bắt ông: Tờ
đầu tiên là trang mạng nguyentandung.org, và sau đó đến báo Công an Nhân dân. Chỉ một mẩu tin ngắn là blogger
Ba Sàm bị bắt, và khắp các nơi đều đăng lại từ bản tin của công an. Khoảng 5 ngày sau đó, trang Ba Sàm hoạt động trở lại.
Những lần “nắn gân” đầu
tiên
Trên máy bay, bà Hà nghĩ miên man. Bà nghĩ tới việc
sẽ có rất nhiều luật sư và nhà báo tìm đến, và việc của bà là phải chọn ra luật
sư với những tiêu chuẩn có thể “tương thích với ông Vinh”. Điều bà không ngờ là
khi bà về tới Việt Nam, đã không có nhà báo nào tìm gặp bà, và luật sư thì chỉ
có vài người, trong đó có ông Trần Vũ Hải.
Bà đến số 7 Nguyễn Đình Chiểu để hỏi thông tin về
ông Vinh, và cuối cùng được “hướng dẫn” việc gửi đồ tiếp tế cho ông Vinh ở trại
B14.
Nhà báo Nguyễn Hữu Vinh trong phiên toà
sơ thẩm ngày 23/3/2016. Bà Lê Thị Minh Hà ngồi đằng sau, bên trái ảnh. Ảnh:
TTXVN.
Tại địa chỉ số 7 Nguyễn Đình Chiểu này, bà gặp một
nhân viên của Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an, tên D. Người này sau đó đã
nhiều lần gọi điện, nhắn tin cho bà, “khuyên” rằng nếu cả bà và ông Nguyễn Hữu
Vinh cùng “hiểu ra vấn đề” thì chỉ hết thời gian tạm giữ, công an sẽ đình chỉ
điều tra. Chỉ cần “nhận sai một tí thôi”.
Bà Hà cười: “D.
lạ nhỉ? Chắc anh chưa học xong an ninh, chưa tốt nghiệp trường mình (Học viện
An ninh) đúng không? Theo anh, sai một tí là sai gì? Chỉ có một là phạm luật mà
hai là không, chứ làm gì có chuyện sai một tí”.
D. cười xuê xoa: “Ừ thì cứ nhận là do mình đã dễ dãi quá… Nhận thì nhẹ tội”.
Bà Hà nghiêm giọng: “Ông Vinh làm gì, nhận hay không nhận, là quyền của ông ấy. Tôi chẳng
liên quan. Đấy là việc ông ấy tự quyết định. Còn tôi chỉ yêu cầu duy nhất một
điều: Ai làm gì ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của ông ấy thì có là em
tao, tao cũng không tha”.
D. đổi giọng: “Chị
với ông Vinh ly thân rồi, đúng không?”.
Bà Hà: “Anh
đưa cho tôi xem văn bản nào quy định là ly thân thì không được tham gia vụ này
xem nào. Cứ cho là có cái văn bản như thế, nghĩa là nó sai. Nếu nó sai mà có đầy
đủ thủ tục pháp lý trước đấy thì tôi vẫn ký nhận nó, nhưng sau đấy tôi sẽ kiện.
Vớ vẩn”.
D. im lặng.
Sau đó, bà Hà “được phép” viết thư cho chồng. Bà viết
ngắn gọn, đại ý: “Em đã về. Nếu có thể làm gì cho anh thì em sẽ làm. Tất cả mọi
chuyện trong gia đình, chuyện con cái, em sẽ lo hết”.
Bà nói, không biết lá thư ấy có được chuyển tới tay
ông Vinh không.
Kỳ 2: ‘Chúng ta có quyền
yêu cầu nhà nước phải làm đúng’
“Tôi đã phải
tìm hiểu tất cả mọi thứ từ đầu. Từ việc tự đọc trên mạng để biết ông Vinh làm
gì, người ta nghĩ về ông ấy như thế nào, đến việc nghiên cứu về các luật sư và
tìm cách tiếp cận rồi mời họ. Chẳng có ai bảo tôi, hướng dẫn tôi phải làm gì cả,
chỉ có một cách là phải đọc, phải suy nghĩ, rồi tự hình thành hướng đi” –
bà Lê Thị Minh Hà, vợ của ông chủ trang “Thông tấn xã vỉa hè” Nguyễn Hữu Vinh
(tức blogger, người tù nổi tiếng Ba Sàm), thổ lộ, cũng như dành lời khuyên cho
những người có hoàn cảnh tương tự bà.
Bà Lê Thị Minh Hà (phải) và bà Thuyên (mẹ
của cô Nguyễn Thị Minh Thuý đầu xuân 2017). Ảnh:
Nguyễn Lân Thắng.
Một trong những điều bà Hà muốn biết ngay lập tức là
tình trạng giam giữ ông Vinh. Tuy nhiên cũng phải đến buổi tối ngày thứ 8, tức
là trước khi ông Vinh bị chuyển từ tạm giữ sang tạm giam, bà mới “được” công an
báo “ngày mai chị gửi đồ cho anh ấy”.
Chỉ trong vài tiếng của buổi sáng hôm sau, bà phải
chạy hộc tốc đi mua hơn 50 ký đồ để tiếp tế cho chồng.
“Thì mình đâu
biết họ quy định thế nào đâu, cứ mua thật nhiều thôi, nghĩ là để cho ông ấy ăn
dần. Bao nhiêu là đồ hộp, thạch, dưa chuột muối… Lại gửi thêm cả cuốn từ điển
to đùng nữa. Lỉnh kỉnh hết túi này tới túi nọ. Mang vào B14, họ cứ cằn nhằn:
Sao mua nhiều thế này? Khổ, lúc ấy mới được lập sổ thăm gặp cho các lần tiếp tế
sau. Về sau tôi cũng biết là họ chẳng chuyển hết cho ông Vinh đâu, họ ở giữa giữ
lại chứ”.
Rồi bà Hà bắt đầu tính chuyện thuê luật sư cho chồng.
Điều đáng chú ý là trước khi bà kịp mời ai, đã có một luật sư tự nhận là người
bảo vệ ông Nguyễn Hữu Vinh. Vị này gặp bà Hà và kể: “Anh ấy (ông Vinh) khai dại lắm chị ạ, sơ hở lắm, nhiều lúc toát cả mồ
hôi, tôi phải khuyên anh ấy đi rửa mặt cho tỉnh”.
Bà Hà không kìm được sự khó chịu khi nghe nhận xét về
chồng mình như vậy. Sau đó, bà lại biết thêm rằng vị luật sư nọ được dùng điện
thoại (nghe và gọi) trong phòng hỏi cung, ngay trước mặt cán bộ điều tra.
“Vậy là mình
hiểu. Như thế chứng tỏ công an biết nhân vật này và cho anh ta vào để dễ bề định
hướng ông Vinh mà thôi”. Một cách sử dụng “quân xanh quân đỏ” cũng khá đặc
thù trong ngành công an.
Bà Hà từ chối vị luật sư đó và đi tìm người khác.
Cần luật sư có gốc công an
Trái ngược với suy nghĩ ban đầu của bà Hà, đã nhiều
người từ chối bà. Có những ý kiến như “chẳng
hiểu vụ này thuê luật sư để làm gì, đây là án chính trị, án bỏ túi, án chỉ đạo”.
Thậm chí có người còn lo ngại “tham gia cãi cho ông Vinh rồi công an nó cho vào tầm ngắm thì chẳng còn
làm ăn gì được”. Bà Hà nhớ lại thời gian đó và nói thẳng rằng bà “rất buồn
và thất vọng”.
Tuy nhiên, cuối cùng bà vẫn tìm được luật sư. Đội
ngũ bào chữa cho Ba Sàm và Nguyễn Thị Minh Thúy có thể nói là hùng hậu, với sự
tham gia của 6 luật sư (Trần Quốc Thuận, Trần Văn Tạo, Trần Đình Triển, Trần Vũ
Hải, Nguyễn Hà Luân, và Hà Huy Sơn). Trong đó, ba ông Trần Quốc Thuận, Trần Văn
Tạo và Trần Đình Triển có điểm chung là đều có gốc an ninh, người từng trong
ngành an ninh, hoặc từng làm việc rất sâu trong bộ máy nhà nước.
“Việc đầu tiên tôi đề ra là phải có luật sư từ ngành công
an mà ra, tức là có học qua Học viện Cảnh sát hoặc Học viện An ninh, hoặc đã đi
làm công an rồi mới làm luật sư. Họ cùng với các luật sư khác phối hợp thì mới
làm được vụ này”, bà Hà nói.
(Thật tiếc,
suy tính của bà Hà – một cựu sĩ quan an ninh – càng đúng bao nhiêu thì càng chứng
tỏ nền tư pháp Việt Nam chịu sự khống chế của công an nặng nề bấy nhiêu.)
Luật sư Trần Quốc Thuận (trái) và bà Lê
Thị Minh Hà sau phiên toà sơ thẩm vụ án Ba Sàm, ngày 23/3/2016. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Có luật sư rồi, mới đến công việc quan trọng nhất là
làm sao để có thông tin về thân chủ.
Bà Hà và các luật sư bàn tính với nhau và cố gắng sắp
xếp để cứ khoảng 2-3 tuần, lại có luật sư vào trại giam gặp ông Vinh để trao đổi,
cập nhật thông tin giữa hai bên. Điều này phải được làm một cách cực kỳ khôn
khéo, bởi mọi cuộc thăm gặp của luật sư với ông Vinh cũng như Minh Thúy đều bị
công an, quản giáo theo dõi rất chặt chẽ.
Trong luật quốc tế, bị cáo có quyền có phương tiện hỗ
trợ thỏa đáng để chuẩn bị cho việc bào chữa, được tạo điều kiện trao đổi, tham
vấn luật sư, cũng như được luật sư đến thăm, mà không bị can thiệp, không bị kiểm
duyệt, và được giữ kín tuyệt đối.
Theo nguyên tắc
18(4) của Tập hợp Các Nguyên tắc Bảo
vệ Tất cả Mọi Người Khỏi Tất cả Các Hình thức Giam giữ và Cầm tù, trao đổi giữa người bị bắt và luật sư có thể được tiến
hành trong tầm nhìn, nhưng không phải trong tầm nghe của
cơ quan hành pháp (tức là công an và điều tra viên). Tuy nhiên, đó là luật quốc
tế, còn ở Việt Nam thì quyền của bị cáo là một cái gì đó khá xa xỉ.
Vì thế, có thể hình dung các luật sư và ông Nguyễn Hữu
Vinh đã phải biết cách trò chuyện và hiểu nhau đến như thế nào.
Giám sát tiến trình tố tụng,
sẵn sàng lên tiếng
Một điều mà bà Lê Thị Minh Hà hết sức khuyến cáo
thân nhân của những người tù làm, là giám sát chặt chẽ quy trình và thủ tục tố
tụng, sẵn sàng chỉ ra các sai phạm, và luôn có ý kiến bằng văn bản.
“Mình phải là
người giám sát và cung cấp thông tin cho luật sư để họ biết là đã quá thời hạn
bao lâu. Không thể coi chuyện quá thời hạn là chuyện đương nhiên được. Phải rất
quan tâm đến các loại thời hạn và thủ tục, phải theo dõi sát sao xem hồ sơ đi
đâu, đang ở đâu”.
Bà Hà chia sẻ: Trong vụ án Ba Sàm, các thông báo của
Viện Kiểm sát hay Tòa đều cụ thể (ví dụ trả hồ sơ để điều tra lại, hoặc hoãn xử);
tuy vậy, bao giờ thông báo cũng được gửi đến luật sư rất chậm, còn gia đình thì
hầu như không nhận được gì. Điều đó khiến các luật sư rơi vào tình trạng thiếu
thông tin – cũng như mọi vụ án khác ở Việt Nam, nơi
tư pháp không độc lập và luật sư không được bình đẳng với công tố.
“Như thế là
sai. Đáng lẽ họ phải thông báo đầy đủ cho luật sư và gia đình. Để đối phó, là
thân nhân thì mình chỉ có hai cách thôi. Một là mình nhờ luật sư theo dõi tiến
trình giúp. Trong mọi vụ án chính trị, chúng ta phải có một luật sư giám sát.
Hai là mình tự đọc, tự tra cứu, xem thời hạn là khi nào, đến thời hạn ấy thì ai
có quyền gì, nghĩa vụ gì. Mình phải nắm vững tất cả những cái đó, phải lập cả sổ
để theo dõi”.
Bà Hà còn chia sẻ thêm một “mẹo”: “Khi nào gần tới thời hạn thì ta có thể thể
thử, ví dụ bằng cách gửi đơn xin thăm gặp, đơn khiếu nại… gửi đến những nơi mà
ta nghi là đang giữ hồ sơ và thông tin. Nếu họ không trả lời thì ta phải đến tận
nơi hỏi kết quả. Hầu hết đơn từ của tôi được trả lời theo hai cách: Hoặc là “hồ
sơ đang nằm ở cơ quan xyz, do đó, chúng tôi không có thẩm quyền giải quyết”, hoặc
là “đã tiếp nhận hồ sơ vào ngày… tháng… năm…”.
Phải biết quyền của mình!
Ngay cả bản thân người bị bắt cũng phải
nắm vững quy trình và hiểu rõ quyền của mình để có thể tự bảo vệ.
Bà Hà khẳng định: “Nếu mỗi một người bị bắt, dù oan dù không oan, mà thấy quyền của mình bị
vi phạm, và đều đòi hỏi quyền đó, thì tự khắc cơ quan tố tụng phải giật mình và
phải biết rằng bây giờ người ta hiểu cả đấy, mình không thể làm sai được”.
Bà lý giải: “Lâu
nay, người bị bắt bị ngược đãi một phần là do chính họ. Người Việt Nam vốn
không quen đòi hỏi quyền của mình – quyền yêu cầu nhà nước phải làm đúng. Như vậy,
đương nhiên là bọn làm sai nó lờ đi. Cứ mỗi ngày sai một tí và rồi làm xói mòn
cả hệ thống tư pháp”.
“Phải
xác định đó là do lỗi của chính chúng ta, của người dân, không của ai khác”, bà
Hà nói.
“Nhiệm
vụ của chúng ta là phải giám sát xem họ sai chỗ nào, sai đâu là phải nhắc nhở đấy.
Nếu họ làm sai quá thì ta tố cáo. Nếu họ làm đúng thì ta cũng có lời khen. Từ
đó, chính quyền sẽ tự ý thức được mà không dám làm sai nữa”.
Kỳ 3 và hết: Cuộc đấu
tranh này là trường học vĩ đại
Tâm lý phổ biến của mọi người là coi án chính trị là
“án bỏ túi, án theo chỉ đạo, có cãi cũng chẳng thắng nên quan trọng nhất là làm
sao giảm số năm tù”. Trái ngược với tâm lý này, cả ông Vinh và bà Hà đều không
đặt nặng vấn đề bản án.
Nhà báo Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh) tác nghiệp
trong một sự kiện ở Hà Nội. Ảnh:
anhbasam.wordpress.com.
Khi còn tự do, ông Vinh đã duy trì
trang Ba Sàm với tinh thần quyết liệt
“khai
dân trí, phá vòng nô lệ”. Ông từng tâm sự với nhiều
độc giả rằng ông muốn theo đuổi đến cùng con đường làm báo độc lập để khai dân
trí.
Bà Hà hiểu rõ mong muốn đó của ông, và bà tin ông
cũng có suy nghĩ như bà: Ngay cả việc đi tù cũng phải
được tận dụng để mang lại kiến thức cho người dân; đi tù cũng phải có ý nghĩa,
quyết không để những năm tháng ngồi tù là uổng phí.
Vì lý do đó, không trao đổi trực tiếp được nhưng cả
hai vợ chồng dường như đều thống nhất một thông điệp: Phải cố gắng lột tả hết
những khía cạnh vi phạm nhân quyền của hệ thống tư pháp không độc lập. Xác định
đối tượng hướng đến là 4 triệu đảng viên, trong đó có cả các cán bộ của ngành
tư pháp Việt Nam – những người chưa bao giờ được biết đến hoặc mơ hồ về tư pháp
độc lập, nhà nước pháp quyền.
“Cho nên khi
trao đổi với luật sư, bao giờ mình cũng nêu yêu cầu số 1 là: Chúng ta cần đối diện với vụ án này như là đứng trước
phiên tòa của một nhà nước pháp quyền vậy. Phải dùng lý lẽ để chỉ ra những cái
sai của hệ thống, còn việc tù bao nhiêu năm, không quan trọng. Các bác đừng
quan tâm đến số năm tù mà hãy quan tâm đến chuyện nếu mình là luật sư của một
nhà nước pháp quyền thì mình phải bào chữa như thế nào”.
Chuẩn mực tố tụng
Vụ án Ba Sàm có lẽ là vụ án điển hình
trong lịch sử tư pháp Việt Nam về vi phạm tố tụng.
Với con mắt của một sĩ quan an ninh được đào tạo bài
bản từ xưa, bà Lê Thị Minh Hà đọc bản kết luận điều tra và đánh giá các điều
tra viên “vô cùng thiếu kiến thức về tố tụng,
phạm những lỗi sơ đẳng về nghiệp vụ”, chẳng hạn, không lập biên bản hiện trạng
của hiện trường trước khi bắt ông Vinh.
“Phải có biên
bản trước khi khám xét, để ghi nhận cái gì đang ở trong tình trạng nào. Động
tác ấy phải được làm đầu tiên và thể hiện bằng văn bản. Nhưng bên an ninh đã bỏ
qua thủ tục bắt buộc, rất quan trọng ấy. Ngay từ bước đầu tiên đã sai rồi, thì
toàn bộ các khâu sau đều coi như sai hết, không có hiệu lực”.
Các luật sư cũng chỉ ra nhiều sai phạm tố tụng khác,
mà như bà Hà tóm tắt: “Bản kết luận điều
tra rất mơ hồ và có những chỗ nói là không có điều kiện xác minh, trong khi ai
cũng thấy là rất dễ và hoàn toàn có thể xác minh. Tất cả tác giả của các bài viết
vẫn còn đây. Hai công ty VDC và FPT thì không được quyền và không có thẩm quyền
giám định mà vẫn được đưa vào, rồi Hoàng Kong Tư là người có liên quan mà lại
được ra quyết định bắt”.
Phiên toà phúc thẩm vụ án Ba Sàm tại Toà
Cấp cao tại Hà Nội, ngày 22/9/2016. Ảnh:
Báo Công Lý.
Tuy thế, phiên tòa sơ thẩm, rồi phúc thẩm vẫn diễn
ra với cáo trạng dựa hoàn toàn vào kết luận điều tra của cơ quan an ninh, và áp
đặt mức án 5 năm và 3 năm tù cho Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy.
Nhưng bà Hà cũng không buồn. Nói đúng hơn, ở bà có một
hỗn hợp nhiều cảm xúc.
Buồn và vui
Giống như thân nhân của nhiều gia đình tù nhân lương
tâm khác, bà Hà từng phải trải qua cảm giác bị xa lánh, bị đối xử lạnh nhạt. Có
một số người thay đổi thái độ, họ tránh mặt bà hoặc nếu buộc phải tiếp thì cư xử
rất gượng ép. Một số khác thì thờ ơ, tỏ ra không muốn dính vào vụ việc. “Có người còn cho là ông Vinh điên, đang yên
đang lành thì đi đấu tranh. Với năng lực của ông ấy thì nếu không chống phá, đã
có thể lên cấp tướng rồi, giữ trọng trách cao, bản thân sung sướng mà vợ con
cũng đỡ khổ”.
Bà cũng đã rất đau đớn sau phiên sơ thẩm
(23/3/2016). Bà nói nhiều về những sai trái, bất công của nó: Một phiên tòa mà
mọi luận điểm quan trọng luật sư đưa ra đều bị từ chối tranh tụng, đại diện Viện
Kiểm sát rất kiệm lời, thẩm phán chủ tọa Nguyễn Văn Phổ thì không có kiến thức
về công nghệ thông tin (trong khi xét xử một vụ án liên quan đến công nghệ
thông tin). Ban đầu tòa xử Nguyễn Thị Minh Thúy 24 tháng, sau thấy thái độ của
cô “bất hợp tác” quá thì tăng lên 36 tháng.
Những điều ấy quả là xúc phạm và gây đau lòng, phẫn
nộ cho một người từng được đào tạo và làm việc trong ngành an ninh và tư pháp,
như bà Hà.
Tuy nhiên, bên cạnh cảm giác cô độc và bị xa lánh,
bà Hà cũng được nhiều người tìm đến và chia sẻ, như giới truyền thông quốc tế,
bà con giáo dân ở Hà Nội, những người hoạt động nhân quyền-dân chủ từ nhiều vùng
trong cả nước, và bloggers. Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh
đã là tù nhân lương tâm đầu tiên của Việt Nam được có một cuốn sách viết riêng
về ông, và là sách song ngữ Việt-Anh.
Sách “Anh Ba Sàm” bắt đầu được xuất bản
độc lập qua Amazon ngay trước phiên toà sơ thẩm. Ảnh:
NXB Trẻ Hà Nội.
Đặc biệt là bà được nhiều bạn bè, đồng nghiệp cũ
trong ngành an ninh ủng hộ. Bà kể, thậm chí còn có điều tra viên tâm sự với bà:
“Bọn cháu ở quê, làm an ninh thì cô biết
đấy, tiền lương của bọn cháu chỉ đủ trả tiền nhà thôi. Vụ này bọn cháu chẳng muốn
làm đâu, nhưng buộc phải làm”.
Có thể họ nói thật, cũng có thể là nói dối, nhưng điều
bà tin chắc là họ thấy day dứt. Vì lẽ đó, bà khuyên những người ở cùng cảnh ngộ
nên cố gắng tránh cực đoan, hạn chế chửi bới, nhất
là không thể hiện mình hận thù và thất bại.
“Mình muốn bạn
bè của mình, kể cả đám an ninh theo dõi mình, đều thấy mình vẫn là một con người,
có yêu có ghét, có thích cái này cái nọ. Nói tóm lại, có một cuộc sống bình thường.
Chẳng việc gì phải lúc nào cũng tỏ ra căm thù và căng thẳng. Rõ ràng đây là câu
chuyện rất lâu dài. Không thể nào tỏ ra tuyệt vọng được”.
Vượt qua sợ hãi
Trong một xã hội vắng bóng pháp quyền,
thật khó để tù nhân lương tâm và gia đình của họ chiến thắng, theo nghĩa là
không phải chịu thiệt thòi gì. Ngược lại, cuộc đấu tranh của họ luôn đầy đau khổ
và nước mắt.
Tuy nhiên, bà Lê Thị Minh Hà vẫn cho rằng bà may mắn.
May vì có những người đã cùng bà tham gia vào cuộc chiến từ đầu và vẫn tiếp tục
đến cùng. May vì nhờ cuộc chiến ấy, bà đã hiểu rằng
làm một con người tự do là phải có nhân quyền – quyền biểu tình, quyền biểu đạt,
và cả quyền phản ứng với bất kỳ cái gì bất công và gây nguy hiểm cho xã hội. May
vì bà đã trưởng thành.
“Mình đã từng
rất sợ hãi nhưng bây giờ mình bước qua khỏi nỗi sợ hãi và mình không sợ nữa. Bà
mẹ của Nguyễn Thị Minh Thúy cũng vậy. Lúc đầu bà ấy vật vã đau khổ nhưng rồi
sau này bà lại cảm ơn mình và rất tự hào về con gái bà ấy, thường nói là “không
thể ngờ là con gái tôi lại làm những điều cao quý như thế”.
“Mọi
điều chính quyền mong muốn đều thất bại: Uy hiếp người ta để người ta sợ, mà cuối
cùng người ta lại dũng cảm hơn. Bản thân họ không sợ đã đành, mà thân nhân họ
cũng không sợ”.
Niềm lạc quan lớn nhất mà bà Hà chia sẻ là: Ai bước chân vào cuộc chiến này mà hết lòng
với nó thì thật sự đây là một trường học vĩ đại.
Trong các vụ án chính trị, hầu như tất cả những người
bị bắt đều mắc một sai lầm rất lớn là không trang bị, chuẩn bị trước về tinh thần
và kiến thức cho thân nhân.
“Bản
thân mình là người học trong ngành an ninh, mà mình còn phải bỏ thời gian ra
tìm hiểu và thấy bỡ ngỡ đến thế, lúng túng đến thế trong giai đoạn đầu thì những
người khác còn như thế nào? Họ gần như không làm được gì và phải cam chịu. Như
vậy thì xã hội sẽ đi về đâu? Và công lao, sự hy sinh của những người đi tù sẽ rất
lãng phí. Đừng để như vậy. Hãy học, từ luật sư, từ những người trẻ tuổi, từ tất
cả”.
Mai sau này, Nguyễn Hữu Vinh ra tù; rất có thể Anh
Ba Sàm nổi tiếng của “Thông tấn xã Vỉa Hè” ngày nào sẽ lại có những bài báo,
bài viết về một thời dữ dội của ông: khai dân trí ngay ở trong tù, phá vòng nô
lệ ngay bằng việc đi tù. Dù thế nào, câu chuyện ấy cũng chẳng thể thiếu vai trò
của vợ ông – bà Lê Thị Minh Hà – người đã đấu tranh theo cách của riêng bà để cố
gắng xây dựng ý thức về thượng tôn pháp luật ở Việt Nam.
Đ.T.
(25.03.2017)
Nguồn: