„Kể từ ngày 1-5-1975, tuy VNCH không còn nhưng Lá Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ vẫn tồn tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường hải ngoại,
vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý bảo tồn và coi đó như một biểu tượng
thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.“
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Là Biểu Tưọng Cao Quý Nhất
của Quốc Dân VN
HỒ ĐINH [MƯỜNG GIANG]
Hơn 85 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên
lãnh thổ VN và những nơi chốn có người Việt TNCS sinh sống sau ngày mất nước
30-4-1975.. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại
vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền
được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến : Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng
(Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày.
Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì " Lá Cờ "
được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định Geneve (1954-1956) còn có sự hiện diện của các
toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định
3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi
khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới
tuyến. Thế là trận giặc " Chọi Cờ " bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải ,
mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định
hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả
hai phía đã thay đổi cở " cờ " tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều
lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ,
đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
CẦU HIỀN LƯƠNG SÔNG BẾN HẢI [VĨ
TUYẾN 17] [BỜ NAM] - VẠCH MỐC SƠN GIŨA CẦU - RANH GIỚI CHIA LY
ĐOẠN TRƯỜNG CẮT RUỘT GIỬA HAI BỜ NAM BẮC TỪ 1954
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức
quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có quyền bắt buộc người
khác phải theo ý mình , đứng chung dưới một lá cờ mà trong thâm tâm của họ, đã
coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu
của Cộng Đảng VN.
Ngoài lá Quốc kỳ " Màu Vàng Ba Sọc Đỏ ", quốc dân VN còn phải biết
lịch sử của hai tiếng VN mà chúng ta đang trân trọng gìn giữ và bảo tồn. Theo
sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 (STL)
là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế nhà Nguyễn, đã có công thống nhất được toàn cõi
sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên,
giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác
phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
của Phan Huy Chú, Du Địa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.. Ngoài ra, các nhà khảo cổ sau này, còn tìm thấy nhiều bia
đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này,
đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện
tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ
về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người
Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ,
qua danh từ miệt thị " An Nam hay Giao Chỉ ".Thời Pháp thuộc, thực
dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích
cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang
Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc
thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận
nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược
tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất
được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang
nhà Thanh, trả lại ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam
Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch),
có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba
tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới
chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế
Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc
hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên
phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong
và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1- Cờ Đỏ Sao Vàng Của
Đảng CSVN :
Hiện
VC đang sử dụng lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cộng sản Trung
Hoa tỉnh Phúc Kiến. Cờ này chỉ xài tại nội địa và đưọc treo bên trong các lãnh sự quán của VC
ở hải ngoại. Ngoài ra Hà Nội còn xài thêm lá cờ nữa gọi đảng kỳ, hình
thức giống lá cờ trên nhưng được vẽ thêm búa liềm. Cờ này cũng đưọc nhái theo
nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ vào các nguồn tài liệu hiện tại, thì lá cờ của CSVN được gọi là Hồng Kỳ
(Cờ Đỏ), do Nguyễn Hữu Tiến vẽ mẫu và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940.
Tuy nhiên Lá Cờ Đảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu
của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường
cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện
Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng,
mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm,
đã sao chép của Liên Xô. Đây là những lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao
có thể bắt buộc mọi người phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố .
2- Lá Cờ Vàng Ba Sọc
Đỏ :
Quốc
dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày
2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở
phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mau, vẫn tiếp tục sử
dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy VNCH không còn nhưng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tồn tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường
hải ngoại, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý bảo tồn và coi đó như
một biểu tượng thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
TẦU ĐƯA TA ĐI, TẦU SẼ RƯỚC TA HỒI HƯƠNG
Tại các nước Âu Châu,
Canada, Úc và nhất là Hoa Kỳ, có nhiều người Việt tị nạn định cư, sau bao chục
năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại,
công nhận " Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ " của VNCH, như là một biểu tượng
tinh thần cao quý nhất của Cộng Đồng VN tị nạn. Sự kiện mới đây, chính quyền thành phố
Westminster thuộc Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định " cấm
lá cờ máu đỏ sao vàng của VC xuất hiện nơi công cộng ", là một chiến thắng
lớn của người Việt QG/TNCS, trên chặng đường đấu tranh quang phục đất nước,
đang nằm dưới ách nô lệ của bạo quyền..
Về
nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm " Quốc Kỳ Việt Nam " của tác giả Quốc Duy
Nguyễn Văn An, thì quốc
kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ
hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam
Phần : Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào
năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ
tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không
chuẩn bị trước, nên Phan
Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn
đại tự ' Đại Nam Khâm Sứ '.Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh,
tượng trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung
Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập
Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim
quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình
quẻ Ly (--)trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm
Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D'Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại
sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi
khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan
nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp , đồng thời cai trị
Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm
của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính
phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm
đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần
Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả
các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống
lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm
Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng " Nam
Phần VN ", để thay thế cái gọi là " Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị ", mà
Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng
đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào
thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau : Ba
lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giao Hòa
Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và
Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch,
cùng các đại diện Đỗ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn
Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài.
Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ
Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo
Đại, đề cập tới trong tác phẩm " Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D'Annam)
", xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên
chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện
diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Đông
Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà
quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện
tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn
tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Bởi
vậy Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN,
vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ
máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cộng sản
quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lý do thiêng liêng mà
người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong,
vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt
quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời,
súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai
triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận lá
cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự
do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi
vì không sống nổi dưới lá cờ máu của đảng cộng sản, cho tới ngày nay, lập
trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3
chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu
vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á
da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước
mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng
Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần ), giữ chức
Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao
phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát "
Thanh Niên Hành khúc " của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó
đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân
đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ
nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi
trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài
hát nào khác, dù bài ' VN-VN của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề
nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm " Việt Nam Nhân
Chứng ", cựu tướng Trần Văn Đôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn
Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự
xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc
ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào
năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân
đội Pháp , thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một
vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ
Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của các giáo phái .. mới được mời họp với ý kiến
và quyết định.
Trong
suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người
dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi
sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích
cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới
cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi
lên khi xung trận.
Quốc kỳ VN như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ
miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cọng sản đệ tam
xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn
khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại với nhau để cùng
sớt chia buồn vui vận nước. Đó là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Đồng VN Tị
Nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa
hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định.. Rồi
những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt
là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt xương, máu
và nước mắt Lính.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia,
lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Tòa Hành
Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không
biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh,
Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã gục ngã, trong
quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt
được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên
lãnh thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp
nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải
chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cộng
sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già
mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng
Đồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh
không vướng bận.
Tám mươi lăm năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cộng
sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau
lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975.
Cho nên bốn mươi hai năm
nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ bọn
cò mồi không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một
cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cọng sản,
để đòi lại những gì mà chúng ta đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống
của kiếp người.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2017
HỒ ĐINH