„Việt Nam hiện nay đang dần dần trên đà là nạn nhân của phương
thức "khống chế tình báo" của Trung Cộng. Nghĩa là trong cả hai trường
hợp, Việt Cộng quyết định chống ảnh hưởng Trung Cộng hay Việt Cộng quyết định
quy thuận Trung Cộng thì đều có lợi cho Trung Cộng. „
Bàn về hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam
Nguyễn Trọng Dân
A. Lời mở:
Giới phân tích về tinh hình Việt Nam hết sức ngạc
nhiên khi vào ngày 30 tháng Chín năm 2015, ông Hà Huy Hoàng, một phóng viên làm
việc cho tờ báo Thế Giới do bộ Ngoại Giao của Việt Cộng làm chủ quản, đã bị kết
án sáu năm tù về tội làm gián điệp cho Trung Cộng (1)
Việt Cộng đã lật đật gỡ xuống hết các bài báo trên mạng
về vụ việc ông Hà Huy Hoàng nhưng theo tường trình của các hãng thông tấn gần
xa bên ngoài Việt Nam có thể dò tìm trên mạng nhờ vượt tường lửa hay liên kết
link ((2) & (3)), chúng ta biết ông Hoàng được cho là có dan díu với một nữ
phóng viên làm việc cho ban tuyên giáo của Trung Cộng có tên là Nhạc Xuân. Ông
Hoàng quen biết được Nhạc Xuân cũng nhờ sự giới thiệu thông qua một phóng viên
Trung Cộng khác làm việc tại Việt Nam có tên là Tôn Vân Quế. Ông Hoàng cũng bị
cáo buộc đã sáu lần sang Nam Ninh Trung Cộng từ năm 2009 đến năm 2011, gặp gỡ
"cảm tình" với Nhạc Xuân để rồi từ đó, nhiều tin tức bí mật được tiết
lộ. Ba điểm mấu chốt của các tin tức mà ông Hoàng tiết lộ cho Trung Cộng có thể
tóm tắt như sau:
Điểm một: Kế hoạch của Việt Cộng đối với các cảng biển
quan trọng của Việt Nam vào năm 2020.
Điểm hai: Tin tức ai giật dây bạo động mạnh chống
người Trung Hoa tại Bình Dương.
Điểm ba: Thông tin đời tư của giới chóp bu Việt
Công.
Nghiên cứu kỹ tầm quan trọng của ba điểm trên, mọi
người dễ dàng thấy rõ như sau:
Về điểm một - vấn đề tiết
lộ kế hoạch các cảng biển quan trọng chiến lược của Việt Nam vào năm 2020:
Rõ ràng thông tin này cho thấy Việt Cộng đang giấu
kín tối đa chủ trương quốc phòng của mình đối với cảng Cam Ranh. Cam Ranh chính là ẩn số mà Trung Cộng muốn dò tìm từ lâu.
Năm 2012, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ là Panetta khẳng định điểm mấu chốt
của sự tiến triển quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ là quyền sử dụng cảng Cam Ranh
dành cho Hải Quân Hoa Kỳ. "Và tương lai này sẽ không xa", ông
Pannetta còn khẳng định thêm ((4),(5)). Từ đó đến nay và sau này, tổng thống
Hoa Kỳ có thể khác nhưng chung cuộc, xác suất Hoa Kỳ sẽ vào đóng quân tại Cam Ranh
như ông bộ trưởng Panetta tuyên bố là rất lớn, có khác chăng là Hoa Kỳ vào Cam
Ranh như thế nào, điều kiện tiền bạc trao đổi thuê mướn như thế nào. Dường như
Hoa Kỳ rất kiên nhẫn, đang chờ đợi nền kinh tế định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa của
Việt Nam vỡ nợ hoàn toàn thì mới đưa ra bản hợp đồng thuê mướn Cam Ranh để thuê
được rẻ hơn và khi đó, Việt Cộng cũng hết đường lựa chọn.
Về điểm hai-biểu tình đập
phá bạo động chống người Trung Hoa tại Bình Dương:
Một cuộc biểu tình bạo động chống Trung Cộng, dù mức
độ nguy hại có cao nhưng nếu không do người ở trong Cộng đảng giật dây tổ chức
thì việc gì Việt Cộng phải lo sợ giấu nhẹm?
Xin được nhắc lại là cuộc biểu tình bạo động tại
Bình Dương xảy ra vào tháng Năm năm 2014 (6). Đây là một cuộc biểu tình chống
Trung Cộng độc nhất vô nhị tại Việt Nam trước giờ, với một lực lượng thanh niên
trai tráng đông đảo hùng mạnh, có tổ chức, đập phá và kích động có bài bản,
chuyên nghiệp, có vũ khí, không có tâm lý sợ hay lo lắng công an chính quyền
can thiệp gì cả, ngang nhiên chủ động tinh hình tại nơi biểu tình, biến mất rất
lẹ khi cần thiết. Rõ ràng lực lượng của cuộc biểu tình ở Bình Dương không phải
xuất thân từ phía người dân lành rất dễ đàn áp như đã thấy qua bao nhiêu cuộc
biểu tình trước giờ, kể cả cuộc tổng biểu tình ngày 5 tháng 3 mới đây. Rõ ràng lực lượng biểu tình bạo động có tổ chức tại Bình
Dương là lực lượng phải từ quân đội hay lực lực lượng an ninh cải trang làm dân
thường tiến hành biểu tình kích động gây đập phá.
Kẻ quyền uy nào ở trong Cộng đảng giật dây cuộc biểu
tình ở Bình Dương vào năm 2014 phải là kẻ có khả năng đảo chánh Việt Cộng bất cứ
lúc nào cũng được. Cho nên, tiết lộ thân phận kẻ quyền uy này dính líu đến cuộc
biểu tình là điều tuyệt đối không thể nào chấp nhận được.
Về điểm thứ ba-thông tin về
đời tư của giới chóp bu Việt Cộng:
Đương nhiên, giới chóp bu trong chế độ Cộng đảng lừa
dối độc tài phải coi đây là tin tức rất nhạy cảm, nhất là các tin tức liên quan
đến các tài khoản của thân nhân em út giới chóp bu Cộng đảng. Cho nên tiết lộ
các tin tức này là điều không thể. Nếu ông Hoàng bị bắt vì tiết lộ những thông
tin này thì không có gì là lạ.
Thế nhưng, một nhân vật tép riu như ông Hoàng mà có
thể biết được chi tiết những tin tức tối mật liên quan đến cảng Cam Ranh, thân
thế quyền hành kẻ bí mật giật dây biểu tình chống Trung Cộng tại Bình Dương
cũng như chi tiết đời tư giới chóp bu để rồi tiết lộ cho Trung Cộng là một điều
không thể nào! Cho nên, việc Việt Cộng xử án thẳng tay sáu năm ông Hoàng về tội
gián điệp cho Trung Cộng là một hành động có tính dằn mặt về mặt chính trị bên
trong nội bộ Việt Cộng, cũng như dằn mặt về mặt ngoại giao giữa "tình đồng
chí Cộng Sản Việt Nam Trung Hoa" hơn là phòng chống hoạt động gián điệp của
Trung Cộng tại Việt Nam.
Ông Hoàng cùng lắm cũng chỉ là một người đưa tin cho
một nhân vật cao cấp nào đó trong giới chóp bu Việt Cộng đang ngã về phía Trung
Cộng hay có lập trường thân Trung mà thôi. Nội gián Trung Cộng cài vào nội bộ
Việt Cộng không thể nào chỉ ở cấp phóng viên chạy lăng xăng như ông Hoàng mà thực
chất, nội gián của Trung Cộng phải nằm ở ngay cấp
chóp bu trung ương của Việt Cộng.
Trước đây, các "đồng chí" của Lê Khả Phiêu
cũng tung tin ra ngoài là Lê Khả Phiêu vướng phải ái tình với Trương Mỹ Vân do
Trung Cộng cài đặt sanh ra đứa con gái, để rồi từ đó bị Trung Cộng khống chế hết
đường cựa quậy mà phải dâng toàn bộ vịnh Bắc Bộ cho Trung Cộng. Chuyện ăn ngủ
gái ghiếc riêng tư của Lê Khả Phiêu, người dân làm sao mà biết được vì đảng
bưng bít mọi bề nên tin tức này phải là từ nội bộ của Cộng đảng xì tin tức ra
ngoài.
Tuy nhiên, hai mảng tin về Hà Huy Hoàng cùng Lê Khả
Phiêu, một có thật, một đồn đại, cũng cho thấy là nội bộ chóp bu của Việt Cộng
chính thức thừa nhận sự khống chế của Trung Cộng về
mặt tình báo lên Việt Nam cũng như Trung Cộng sẽ tìm mọi cách khống chế và để đẩy
mạnh hoạt động tình báo tại Việt Nam. Lời thú nhận của tướng Công an
Trương Giang Long (7) về hiện tình Cộng đảng đang bị Trung Cộng "khống chế
tình báo" không hiểu vì sao được phát tán ầm ĩ trên mạng gần đây càng khẳng
định thêm sự thật này.
B. Quan niệm "khống
chế tình báo" của Trung Cộng:
Dựa trên sự phân tích hàng loạt các phản ứng, các chính
sách ở mọi mặt của Trung Cộng, mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy mục tiêu của
Trung Cộng là tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng ảnh hưởng chính trị, quân sự của
mình lên mọi nơi cũng như bành trướng địa dư, và tìm đủ cách bảo vệ an toàn con
đường chở dầu hỏa về cung phụng nền kinh tế của Trung Cộng. Từ đó, Trung Cộng cần
một đối sách chiến lược tình báo để tăng cường sức ảnh hưởng của mình lên nhiều
quốc gia, nhằm đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh chính trị cho Trung Cộng. Chiến
lược tình báo này tạm gọi là chiến lược "khống chế tình báo.”
Do đó, có thể hiểu định nghĩa của “khống chế tình
báo" là khả năng mà ngành tình báo có thể khống chế hay lèo lái quyết định
của giới cầm quyền của một quốc gia, của một tổ chức, một phe nhóm hay của một
công ty, vân vân, về mặt nhân sự, về mặt kinh tế đầu tư, về mặt quốc phòng,
thông tin và an ninh sao cho có lợi cho mình.
Ngành tình báo của Trung Cộng vạch rõ mục tiêu hay
ngành nghề cụ thể cần phải "khống chế tình báo" cho từng quốc gia
khác nhau. Do đó, hoạt động và mục tiêu tình báo của Trung Cộng ở mọi quốc gia
cũng khác nhau. Đặc biệt, trong nỗ lực bành trướng ảnh hưởng chính trị và kinh
tế ra toàn cầu, tình báo của Trung Cộng bỏ dần chủ trương hỗ trợ khủng bố của
ba thập niên từ 1960 đến 1990 mà từ từ tập trung đi theo khái niệm "khống
chế tình báo" để gia tăng quyền lợi kinh tế, quyền lợi chính trị của mình
lên các nước.
Tập Cận Bình là người chủ trương đẩy mạnh khái niệm
tình báo này. Nhờ lèo lái khôn khéo ngành tình báo tay chân của mình theo khái
niệm này, họ Tập đã có thể loại bỏ được vây cánh Trùng Khánh đông như kiến của
Bạc Hy Lai mà đảng Cộng Sản không bị đổ vỡ, lại có thể buộc trùm an ninh tình
báo Trung Cộng là Chu Vĩnh Khang buông tay đầu hàng không phản kháng. Đó là
chưa kể khiến phe Thượng Hải của họ Giang phải tan hàng dù biết vây cánh mình đủ
sức giết họ Tập bất cứ lúc nào mình muốn. Họ Tập cũng dùng phương thức "khống
chế tình báo" để buộc những kẻ bị mình thanh trừng không thể động binh phản
pháo mà phải tự tử hoặc chịu đòn tù tội trong im lặng dù binh lực nắm cả vạn
người trong tay, lúc nào cũng sẵn sàng.
Mức độ và khả năng "khống chế tình báo" của
Trung Cộng dưới thời họ Tập phát triển ngày một tinh vi, giúp cho họ Tập nắm
toàn quyền tuyệt đối trong nội bộ, bành trướng mạnh hoạt động tài chánh và đầu
tư của Trung Cộng ra ngoài hải ngoại, lèo lái âm thầm để những lập trường chính
trị bài xích hàng hóa Trung Cộng ở từng quốc gia bị suy yếu đi.
Đối sách "khống chế tình báo" mà Trung Cộng
đang sử dụng lên các nước ASEAN khiến ASEAN như bãi cát rời, khiến Mỹ thì chập
chừng thiếu quyết đoán, khiến Úc thì nghi ngại để rồi mọi quyết định cần thiết
của cộng đồng quốc tế để ngăn cản và chấm dứt sự xây lấn tái phép biển đảo của
Trung Cộng tại biển Đông không thể thực hiện được.
Quan niệm "khống chế tình báo" khác hẳn với
hành động khống chế theo kiểu "black mail" thường nghĩ ở một chỗ, quyết
định của nạn nhân bị "black mail" hầu hết là cưỡng ép trong khi hầu hết
quyết định của những nạn nhân bị "khống chế tình báo" lại là tự nguyện
do suy tính phản ứng trước tình huống sao cho có lợi nhất về mình. Nghĩa là, nạn
nhân bị "khống chế tình báo" có thể là một tổ chức, một công ty, một
đảng phái hay một quốc gia, hay một nhân vật quan trọng, đưa ra quyết định sao
cho có lợi nhất cho mình, cho gia đình mình trong một hoàn cảnh nhất định,
nhưng sự suy tính đã bị chi phối bởi những ảnh hưởng bí mật do ngành tình báo
cài đặt từ xa, qua nhiều bước cài đặt tinh vi chồng chất. Nạn nhân có toàn quyền
quyết định khác đi nếu muốn, nhưng ngay cả khi quyết định khác đi, sự quyết định
này của nạn nhân cũng có lợi cho thế lực đang có phương tiện "khống chế
tình báo.”
Thí dụ như tình hình Việt Nam. Việt Nam hiện nay đang dần dần trên đà là nạn nhân của
phương thức "khống chế tình báo" của Trung Cộng. Nghĩa là trong cả
hai trường hợp, Việt Cộng quyết định chống ảnh hưởng Trung Cộng hay Việt Cộng
quyết định quy thuận Trung Cộng thì đều có lợi cho Trung Cộng.
Nếu bàn thảo chống hay đánh Trung Cộng để tự vệ thì
ngành tình báo của Trung Cộng mọc rễ sâu rộng trong giới chóp bu của Việt Cộng
dư sức làm cho bộ Chính Trị của Việt Cộng bị rối loạn tự tan rã trong chớp mắt
khiến Việt Nam lại thuận thảo Trung Cộng hay bị Trung Cộng chiếm đóng.
Còn trong trường hợp Việt Cộng quy thuận Trung Cộng
ngay từ đầu thì Việt Cộng cũng không thể tồn tại trên quyền lực vì mọi quyết định
của Việt Cộng đều phải nằm trong một khung sườn chính trị ngoại giao do Bắc
Kinh để ra rất cụ thể và chi tiết. Nền tài chánh Việt Nam bị Trung Cộng kiểm
soát. Lúc đó, mặt nhân sự của Cộng đảng bị bóp méo mất tự chủ và toàn bộ nền
kinh tế quốc phòng của Việt Nam là do Trung Cộng chi phối đều khiến. Đó là chưa
kể Bắc Kinh có thể sẽ cử người trực tiếp tiếp quản Việt Cộng theo phương thức
bí thư hay cố vấn từ Bắc Kinh, ban thường trực là người địa phương, khiến Việt
Cộng hoàn toàn bị mất quyền lợi ngoại giao, quyền lợi kinh tế. Trung Cộng cũng
có thể sẽ chia Việt Nam ra thành nhiều quận hạt với nhiều hình thức bù nhìn
khác nhau khiến Việt Cộng không còn khả năng phản kháng.
Đương nhiên, Việt Cộng còn giải pháp ngã về phía Hoa
Kỳ mong Hoa Kỳ "rộng thương cỏ nội hoa hèn" mà giúp nhưng do bị “khống
chế tình báo” bởi Trung Cộng sâu rộng bên trong, làm gì mà nội bộ Việt Cộng có
thể đủ sức đi đến quyết định làm đồng minh của Mỹ?
Tuy nhiên, xin được lưu ý là nếu Việt Cộng bị lật đổ trong bất ngờ để thể chế dân chủ dân quyền Việt
Nam Cộng Hòa thiết lập thì mọi nỗ lực "không chế tình báo" của Trung
Cộng trước giờ lên Cộng đảng bị hóa giải hoàn toàn- khiến Trung Cộng muốn
có được tình huống "không chế tình báo" trở lại thì phải cần thời giờ
gầy dựng lại từ đầu rất khó và rất lâu.
C. Các phương thức
"khống chế tình báo" của Trung Cộng:
Đi tìm nguồn gốc của sách lược "khống chế tình
báo" mà Trung Cộng áp dụng để coi ai là cha đẻ của sách lược này, đến giờ
phút này vẫn chưa có sự khẳng định rõ ràng, chỉ biết là phương thức "khống
chế tình báo" của Trung Cộng là một chương hay một phần trong “sách lược sức
mạnh mềm" được Hoa Kỳ đẩy mạnh vào thời các tổng thống Clinton, Bush con
và Obama.
Đối với Việt Nam, "sách lược sức mạnh mềm"
đã được Hoa Kỳ áp dung vào năm 1992 và thỉnh thoảng bị hé lộ úp úp mở mở trên
các hãng thông tấn, trên các bài bình luận của các chiến lược gia Hoa Kỳ với tiếng
lóng là "flirting policy", tạm dịch là "đối sách dụ khỉ".
Dường như Trung Cộng bỏ hết các chương mục khác của toàn bộ đề nghị "sách
lược sức mạnh mềm" mà chỉ lấy chương "khống chế tình báo" trong
sách lược này để sử dụng với nhiều cách thức tàn nhẫn, tốn kém và gấp rút hầu
mong đạt được kết quả nhanh hơn dự tính trong mọi lãnh vực từ thanh trừng chính
trị đến khống chế kinh tế, chính trị ở nhiều quốc gia.
Thông qua hàng ngàn tin tức thu thập bấy lâu về kinh
tế chính trị trên thế giới, chúng ta có thể thấy Trung Cộng sử dụng các phương
thức chủ yếu sau đây để đạt được mục tiêu "khống chế tình báo" của
mình:
1, Lũng đoạn tài chánh
2. Mua chuộc nhân sự
3. Thâu tóm thị trường
4. Khống chế thông tin
5. Liên kết quyền lợi.
Như vậy, khi Việt Cộng
là nạn nhân "khống chế tình báo" của Trung Cộng thì:
1. Nền tài chánh do Việt Cộng chủ quản
sẽ bị Trung Cộng lũng đoạn tối đa.
2. Nhân sự hàng ngũ Cộng đảng cũng bị
Trung Cộng mua chuộc tối đa ở mọi cấp, kể cả ở quận huyện, ở
khối doanh nghiệp, ở các ban ngành.
3. Thị trường hàng hóa tại Việt Nam phải
là thị trường hàng hóa của Trung Cộng.
4. Mọi thông tin trên mạng từ mọi cơ sở
chính quyền, từ mọi tổ chức tại Việt Nam, kể cả email đều bị Trung Cộng thu thập,
phân tích và khống chế. Tất cả các internet server (hay gọi nôm
na là ổ chứa vi tính) hiện nay tại Việt Nam đều sẽ phải có các phần mềm dò xét
(spyware) của Trung Cộng cài đặt hay phải kết nối hoặc bị khống chế bởi các
server của Trung Cộng trong mục tiêu kiểm soát khống chế thông tin.
5. Quyền lợi đem đến nhờ độc tài đảng trị đã là dã
tâm làm mờ mắt các đảng viên và tạo ra sức hút quá mạnh buộc Việt Cộng phải liên kết với Trung Cộng để chống đa đảng,
đa nguyên và đòi hỏi tiến bộ dân quyền trước sức ép của mạng internet và của
Hoa Kỳ trong sách lược “sức mạnh mềm.” Do đó, hợp tác giữa Việt Cộng và
Trung Cộng về an ninh chính trị cần phải có, để rồi vòng xoáy dã tâm tham vọng
quyền lực khiến Việt Cộng từ từ hoàn toàn trở thành nạn nhân của sách lược
"khống chế tình báo" của Trung Cộng hết cách cứu vãn, đẩy toàn bộ xã
hội Việt Nam vào tình trạng lệ thuộc Trung Cộng về mọi mặt.
Khi đã biết được năm phương thức chủ yếu mà ngành
tình báo của Trung Cộng tiến hành để biến Việt Nam thành nạn nhân của "khống
chế tình báo" thì sẽ hiểu được hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt
Nam sẽ phải như thế nào, sâu rộng ra làm sao.
D. Hoạt động tình báo của
Trung Cộng tại Việt Nam:
Hoạt động tình báo của Trung Cộng tại
Việt Nam từ đó, như đã trình bày phần trên, sẽ phải dàn trải sâu rộng vào mọi
ngã ngách của xã hội Việt Nam, vào mọi ngành nghề của Việt Nam,
vào mọi tập đoàn kinh tế của Việt Cộng do chủ quản, ở mọi địa phương, ở mọi cấp
bậc trong chính quyền, trong Cộng đảng, mọi máy vi tính, mọi ổ chứa server, thậm
chí lan rộng luôn vào bộ phận tình báo lẫn bộ quốc phòng của Việt Cộng. Nói một
cách khác, Trung Cộng biết chi tiết mọi tình huống xảy ra ở Việt Nam trong mỗi
phút trước cả thông tin được tải đăng trên báo chí.
Khi tổng thống Obama sang thăm Việt Nam, ông ghé vào
quán bún bình dân nhỏ bé ở góc phố bình thường như mọi góc phố dơ bẩn ồn ào
khác ở ngoài Hà Nội (8), ông muốn gởi một thông điệp cảnh cáo đến giới chóp bu
Cộng đảng ở Hà Nội là một quán bún nhỏ ở ngỏ ngách Lê Văn Hưu mà Tổng thống nước
Mỹ cũng biết thì những gì Cộng đảng đang toan tính, những mưu mô lợi dụng nước
Mỹ, đương nhiên tổng thống Mỹ cũng biết. Thế nhưng đồng thời, tổng thống Obama
cũng muốn gởi thông điệp đến Bắc Kinh, đang dòm ngó nội tình Việt Nam hết sức kỹ
lưỡng không xót một viên gạch, là mọi hoạt động tình báo sâu rộng mà Trung Cộng
đang tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam được thì người Mỹ cũng làm được.
Điều này cho thấy rõ Việt
Nam hiện tại vẫn là chiến trường của hai siêu cường Trung Cộng và Hoa Kỳ, một
loại chiến trường kiểu mới không tiếng súng, khiến người dân bình thường không
nghĩ đến, không biết, không thấy có bom đạn đổ máu, nhưng kẻ thắng trong
chiến trường này sẽ kiểm soát được quốc gia Việt Nam sau này. Đó là chiến trận
chiến tình báo tại Việt Nam.
Cũng giống như năm 1963, Hoa Kỳ phải vào tham chiến
miền Nam để ngăn cản sức tấn công tàn khốc của Cộng Sản Bắc Việt lên Việt Nam Cộng
Hòa, kể từ năm 1992 thì Hoa Kỳ đã phải nhảy vào tạo ra trận chiến mặt trận tình
báo, nhằm cứu vãn trong âm thầm cho Việt Nam thoát khỏi sự tấn công tình báo từ
phía Trung Cộng, để quá trình Việt Nam trở thành nạn nhân của sách lược
"khống chế tình báo" của Trung Cộng trở nên khó khăn hơn.
Tuy nhiên, cũng giống như trận chiến ngăn chống sự tấn
công của Cộng Sản Bắc Việt trước năm 1975, sự can dự phòng thủ mặt trận tình
báo của Hoa Kỳ cho Việt Nam ngày nay có mức độ và giới hạn. Và Trung Cộng cũng
sẽ đi đường vòng ra phía sau hậu trường nước Mỹ để vận động cho một sự thoái
lui trên mặt trận tình báo của Mỹ, giống như trước năm 1975 nước Mỹ thoái lui về
quân sự do hậu trường chính trị thay đổi để Việt Nam hoàn toàn bị Trung Cộng
lũng đoạn.
Việt Cộng không cách gì có thể đủ sức
phòng thủ nổi trong lãnh vực tình báo trước Trung Cộng do
giới chóp bu của Việt Cộng và hầu hết các đảng viên đang bị mờ mắt trước quyền
lợi tiền tài từ Trung Cộng đem lại cũng như từ sự độc tài toàn trị đem lại và sẽ
đẩy Việt Nam hoàn toàn trở thành nạn nhân của chiến lược "khống chế tình
báo" của Trung Cộng.
Lý do Trung Cộng còn để Việt Cộng tồn
tại trong một thời gian nữa là vì khả năng của Việt Cộng làm tiêu tan sức mạnh
đối kháng của dân tộc Việt giúp giùm cho Trung Cộng.
Ngày nào khả năng này của Việt Cộng không còn cần thiết nữa thì Trung Cộng sẽ
ra tay bóp nát Việt Cộng trong nháy mắt.
E. Lời kết:
Mọi chế độ tràn ngập
tham nhũng chính là dấu hiệu của cả một quốc gia đang dần dần trở thành nạn
nhân của sách lược "khống chế tình báo" của một quốc gia khác. Mọi
xã hội có chế độ độc tài thì xã hội đó bị suy yếu và mất sức đề kháng. Việt Nam đã không còn sức để kháng Trung Cộng được nữa và
sẽ trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng.
Niềm hy vọng duy nhất cho sức để kháng
Trung Cộng của Việt Nam bây giờ chính là tinh thần dân tộc dân quyền của công
dân Việt Nam Cộng Hòa ở trong nước lan ra tới hải ngoại.
Ngày nào còn chê bai, dị biệt, xa lánh tình thần Việt Nam Cộng Hòa là ngày đó,
Việt Nam vẫn còn là nạn nhân của Trung Cộng trên mọi lãnh vực từ kinh tế chính
trị đến an sinh xã hội, là nạn nhân của sách lược "khống chế tình
báo" do Bắc Kinh tiến hành.
13/5/2017
Nguyễn Trọng Dân