„Phán quyết của Tòa cũng đặt ra một tiền lệ pháp lý quan trọng giúp
Việt Nam xử lý tranh chấp với Trung cộng đối với vùng biển xung quanh Quần đảo
Hoàng Sa...
Tuy nhiên, phán quyết cũng tạo ra một số tác động tiêu cực đối với
tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Quần đảo Trường Sa.“
Phán quyết Biển Đông: Lợi và hại đối với Việt Nam
Lê Hồng Hiệp (ISEAS)
Cán bộ, chiến sĩ đảo Trường Sa Lớn ra tận cầu
tàu chia tay khách đến thăm đảo. Ảnh: Hoàng Hà/ báo ảnh VN.
Phán quyết của Tòa
trọng tài về vụ kiện của Phi Luật Tân đối với Trung cộng là một cột mốc lịch sử
trong tiến trình tranh chấp Biển Đông. Là một trong những bên tranh chấp chính,
Việt Nam đã hoan nghênh việc Tòa ra phán quyết, và nói rằng sẽ đưa ra một tuyên
bố riêng về nội dung của phán quyết này. Tuyên bố dự kiến sẽ giúp làm sáng tỏ
cách hiểu của Việt Nam đối với phán quyết, đồng thời cung cấp các manh mối về
việc Việt Nam có thể sẽ xử lý tranh chấp như thế nào trong tương lai.
Tác động của phán quyết đối
với Việt Nam
Việt Nam được hưởng lợi đáng kể từ phán
quyết, nhưng cũng phải đối mặt với một số tác động tiêu cực đối với các tuyên bố
chủ quyền của mình ở Quần đảo Trường Sa.
Hai điểm trong phán
quyết của Tòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Thứ nhất, Tòa
tuyên bố yêu sách “quyền lịch sử” của Trung cộng dựa trên đường chín đoạn là
không phù hợp với Công ước năm 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Thứ
hai, Tòa xác định không thực thể nào thuộc Quần đảo Trường Sa đủ tiêu chuẩn của
một hòn đảo theo Điều 121 (3) của UNCLOS. Như vậy, các thực thể này tối đa chỉ
được hưởng một vùng lãnh hải 12 hải lý mà không được hưởng một Vùng Đặc quyền
Kinh tế (EEZ) có thể mở rộng đến 200 hải lý.
Những phán quyết này đã thu hẹp đáng kể
phạm vi tranh chấp biển giữa Trung cộng và Việt Nam. Từ giờ trở đi, sẽ không còn vùng chồng lấn giữa
đường chín đoạn của Trung cộng với EEZ của Việt Nam, cũng như giữa EEZ giả định
của một số thực thể nhất định trong Quần đảo Trường Sa và EEZ của Việt Nam tính
từ đất liền.
Phán quyết của Tòa cũng đặt ra một tiền lệ
pháp lý quan trọng giúp Việt Nam xử lý tranh chấp với Trung cộng đối với vùng
biển xung quanh Quần đảo Hoàng Sa. Do các thực thể thuộc Quần đảo Hoàng Sa cũng tương tự như các thực thể
ở Trường Sa về quy mô và tính chất, chúng nhiều khả năng cũng không có EEZ.
Ngoài ra, phán quyết của Tòa cho rằng Quần đảo Trường Sa không thể được hưởng
các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất cũng có thể áp dụng được đối
với Quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, đường cơ sở thẳng mà Trung cộng thiết lập xung
quanh quần đảo này hồi năm 1996 sẽ không còn giá trị nữa.
Trong các sự cố
trên biển giữa hai nước trước đây, trong đó có việc Trung cộng mời thầu 9 lô dầu
khí thuộc EEZ của Việt Nam hồi năm 2012 và triển khai giàn khoan Hải Dương 981
trong EEZ của Việt Nam hồi năm 2014, Trung cộng đã biện minh bằng cách viện dẫn
tới các quyền của mình trong phạm vi đường chín đoạn hay vùng EEZ giả định của
hai quần đảo. Với hai phán quyết trên, Việt Nam hiện có một cơ sở pháp lý vững
chắc để ngăn chặn sự xâm phạm của Trung cộng vào EEZ của mình trong tương lai.
Tuy nhiên, phán quyết cũng tạo ra một số tác động tiêu cực đối với tuyên bố chủ
quyền của Việt Nam ở Quần đảo Trường Sa. Ví dụ, do Tòa tuyên bố rằng không thực thể nào thuộc Quần đảo Trường
Sa được hưởng EEZ, quyền tiếp cận của ngư dân Việt Nam đối với ngư trường quan
trọng này có thể bị giảm xuống đáng kể. Cụ thể, họ sẽ mất quyền
đánh cá trong các vùng nước bên trong EEZ của Phi Luật Tân và ngoài vùng lãnh hải
của các thực thể đủ tiêu chuẩn thuộc Quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng có thể sẽ phải từ bỏ tuyên bố chủ
quyền của mình đối với Bãi Vành Khăn
và Bãi Cỏ Mây vốn được Tòa tuyên bố là các thực thể lúc
chìm lúc nổi (LTEs) và thuộc về thềm lục địa của Phi Luật Tân.
Quan trọng hơn, Việt Nam cũng có thể sẽ phải từ bỏ tuyên bố chủ
quyền đối với các đá Tốc Tan và Núi Le, những thực thể đang thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam.
Những thực thể này, được các chuyên gia xác định là các bãi lúc chìm lúc nổi, nằm
trong vùng EEZ của Phi Luật Tân và bên ngoài lãnh hải của các thực thể xung
quanh. Theo UNCLOS, các thực thể này không phải là đối tượng của các tuyên bố
chủ quyền, và Phi Luật Tân có quyền chủ quyền đối với chúng. Mặc dù phán quyết
của Tòa không trực tiếp đề cập tới các thực thể này, Việt Nam có thể bị Phi Luật
Tân yêu cầu từ bỏ chúng.
Tuy nhiên, cần xác
định rằng, phán quyết của Tòa trọng tài không giải quyết vấn đề chủ quyền của
các thực thể, vì vậy những tác động tiêu cực trên chỉ mới là những khả năng, phụ
thuộc vào đàm phán giữa Việt Nam và Phi Luật Tân, cũng như mức độ tuân thủ của Trung
cộng. Nếu Trung cộng không tuân thủ phán quyết, nguyên trạng tại Trường Sa nhiều
khả năng sẽ không thay đổi.
Tác động tới quan hệ của
Việt Nam với Phi Luật Tân và Trung cộng
Như vậy, phán quyết của Tòa vừa tăng cường sức mạnh đàm phán của Việt Nam đối
với Trung cộng, vừa làm suy yếu vị thế thương lượng của ta trước Phi Luật Tân. Tuy nhiên, Việt Nam có thể vẫn sẽ ủng hộ phán
quyết vì các lợi ích mà phán quyết mang lại nhìn chung vượt xa các thiệt hại có
thể có. Hơn nữa, Việt Nam vẫn có thể đàm phán với Phi Luật Tân về quyền đánh cá
của mình cũng như việc chiếm đóng các thực thể lúc chìm lúc nổi nêu trên. Dẫu
sao, do Việt Nam và Phi Luật Tân là các “đồng minh trên thực tế” trong vấn đề
tranh chấp Biển Đông nên phán quyết nhiều khả năng sẽ không gây tác động tiêu cực
tới quan hệ song phương, ít nhất là trong ngắn hạn.
Còn về quan hệ Việt
-Trung, các tiền lệ được thiết lập bởi phán quyết của Tòa sẽ giúp chúng ta nhiều
khả năng giành phần thắng nếu tiến hành một vụ kiện tương tự về Quần đảo Hoàng
Sa. Tuy nhiên, Việt Nam không nên khởi động tiến trình này ngay vì làm như vậy
sẽ gây ra sự thù địch dữ dội từ phía Trung cộng và gây bất ổn quan hệ song
phương, điều Việt Nam chưa sẵn sàng đối phó. Thay vào đó, chúng ta nên để mở lựa
chọn pháp lý này và sử dụng nó như là một đòn bẩy mặc cả trong việc xử lý quan
hệ với Trung cộng.
Tóm lại, Việt Nam sẽ đo lường phản ứng của mình một cách cẩn thận để tối đa
hóa lợi ích thu được từ phán quyết của Tòa. Đồng thời, việc Việt Nam ủng hộ Phi Luật Tân ngay từ giai đoạn đầu của
quá trình trọng tài ngụ ý rằng Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận những tác động
tiêu cực có thể có của phán quyết đối với lợi ích của mình. Mặc dù vậy, chính
sách Biển Đông và hành động trên thực địa của Việt Nam trong thời gian tới sẽ
phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tuân thủ của Trung cộng đối với phán quyết, cũng
như tình trạng quan hệ của Việt Nam với Trung cộng và Phi Luật Tân trong tương
lai.
Trước mắt, Việt Nam chưa cần phải vội
vàng hành động.
LHH
TS Lê Hồng
Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof
Ishak Institute), Singapore.
Bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên tờ TODAY
(Singapore):