Đỗ Trường
Nhà văn Trần
Hoài Thư. Ảnh: Trần Trung Đạo.
Cuối tuần, có bác nhà thơ già đến thăm, ghé
mắt vào bài đang viết về nhà văn Trần Hoài Thư của tôi, rồi gật
gật, lắc lắc, bảo: Cái tựa, Người ngồi vá lại những linh hồn, thấy
rờn rợn thế nào ấy. Vâng! Khi chưa đọc, chưa nghiên cứu Trần Hoài Thư,
bác có cảm giác vậy thôi. Đọc rồi, bác sẽ thấy, một Trần Hoài Thư
không chỉ đang ngồi vá lại linh hồn mình, đồng đội mình, mà còn đang
nhặt nhạnh những linh hồn văn hóa Việt rách nát, vương vãi đâu đó,
rồi cặm cụi khâu lại nữa kìa.
Nghe tôi trả lời, bác nhà thơ già gật gù,
gật gù lẩm bẩm: Được, tôi sẽ tìm đọc, xem có thật vậy không?
Phải nói thẳng, Trần Hoài Thư không phải là
một nhà văn, nhà thơ lớn, lừng lững tên tuổi trên văn đàn của Văn học
miền Nam trước 1975, cũng như ở hải ngoại hiện nay. Nhưng ông là một
trong những nhà văn tôi yêu mến nhất của nền văn học Việt Nam từ
trước đến nay. Bởi, ngoài tài năng, thì nhân cách lòng quả cảm, dám
hy sinh, đi đến tận cùng của sự đam mê, cũng đầy trách nhiệm với văn
hóa, văn chương nước nhà như ông, không phải ai cũng làm được. Và có
lẽ, nhiều người đọc, nghiên cứu ông đồng cảm với tôi về điều này
(?).
Nhà văn Trần Hoài Thư tên thật là Trần Qúi
Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Dường như, cái tên Qúi Sách này, đã
vận thẳng vào cái nghiệp viết, và nâng niu gìn giữ từng trang sách,
hồn thơ Việt của ông chăng? Truyện ngắn "Nước Mắt Tuổi
Thơ" in trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn vào năm 1964 là
chiếc thẻ thông hành đã đưa Trần Hoài Thư đến với làng văn. Sau khi
tốt nghiệp ngành toán học, trường Đại học Sài Gòn, ông về giảng
dạy trung học tại Tam Kỳ. Năm 1966 Trần Hoài Thư nhập ngũ khóa 24
Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Và gần mười năm trong quân ngũ, lúc
là lính thám kích, khi là phóng viên chiến trường, dường như không
lúc nào ông ngừng viết. Nhật ký chiến trường, hoặc những truyện
ngắn, tản văn thời kỳ ấy, không chỉ có khói súng, mùi đạn bom quyện
với máu thịt ông, đồng đội ông, mà còn thấm đẫm nước mắt của tình
yêu, tình người. Sau 30-4-1975, Trần Hoài Thư bị tù cải tạo. Ra tù,
năm 1980 ông vượt biển, hiện đang viết và làm chủ cơ sở xuất bản Thư Ấn
Quán, cũng như Thư Quán Bản Thảo, một tạp chí văn học tại New Jersey Hoa Kỳ.
Có thể nói, thơ văn cũng như thân phận người
lính Trần Hoài Thư gắn chặt với những biến cố thăng trầm của đất
nước. Do vậy, cũng như những nhà văn cùng thời, cái sự nghiệt ngã
ấy, đã ngắt thơ văn ông thành từng giai đoạn thật rõ ràng.
Tuy bước chân vào làng văn bằng văn xuôi, nhưng
thơ đã đóng góp không nhỏ tạo nên một chân dung vạm vỡ Trần Hoài Thư.
Với 14 tập truyện, cùng 8 tập thơ (?) đã xuất bản, minh chứng Trần
Hoài Thư có sức viết dẻo dai, và khá cân đối. Với tôi Truyện Từ Văn
và Truyện Trần Hoài Thư (rút từ các tập san) viết trước 1975, được
in lại trong mấy năm gần đây, cùng với thơ, và tập truyện Ra Biển Gọi
Thầm, Hành Trình Của Một Cổ Trắng là những tác phẩm tiêu biểu cho
bút pháp trong từng giai đoạn sáng tác của ông.
Khi đi sâu vào nghiên cứu, tôi nhận ra, ngoài
tính chân thực, thì nghệ thuật miêu tả (diễn biến) nội tâm nhân vật
là đặc điểm nổi bật nhất trong truyện của Trần Hoài Thư. Nghệ thuật
này là một tài năng, tìm tòi liên tưởng chứ dứt khoát không phải do
ông xuất thân từ nhà giáo, đã kinh qua những giáo trình tâm lý học.
Bởi, cũng có nhiều nhà văn xuất thân từ nhà giáo, nhưng không có đặc
điểm này.
Chiến tranh, dưới cái
nhìn và ngòi bút nhân bản của nhà văn.
Nếu phải đưa ra một câu trả lời, với tôi Trần
Hoài Thư, Phan Nhật Nam, Thế Uyên là những nhà văn hàng đầu viết về
người lính của văn chương miền Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất của
cuộc chiến. Và cùng với Cao Xuân Huy và Phạm Tín An Ninh ở giai đoạn
sau 1975 cho đến nay, nơi hải ngoại.
Có một điều đặc biệt, Trần Hoài Thư là một
người lính chiến thực thụ và viết ngay nơi chiến trường. Hơn thế
nữa, nhiều nhà phê bình đánh giá, nhận định ông là nhà văn quân đội.
Nhưng đọc ông, cho tôi cảm giác, dường như có những lúc linh hồn ông
đã tách ra khỏi cuộc chiến, rời bỏ chiếc áo nhà binh. Bởi, ngoài
những người lính, còn có không ít truyện viết về tình yêu, về cái
thuở học trò với những cuộc sống thường nhật, hay về cả những khi
phản kháng đào ngũ, bỏ đơn vị nó hằn đậm trên trang viết của ông ở
cái thời binh đao khói lửa ấy.
Có lẽ, ngay từ buổi ban đầu, Trần Hoài Thư
chưa có ý thức rõ ràng về chiến tranh, với những lý tưởng cao đẹp
nào đó. Cho nên, bước chân vào quân trường là nghĩa vụ bắt buộc đối
với ông. Sự chán chường ấy, ta đã bắt gặp rất nhiều trên những trang
viết của Trần Hoài Thư. Giai đoạn đó với ông, dù có đứng ở bên nào,
góc độ nào thì cuộc chiến này cũng đều vô nghĩa. Do vậy, không chỉ
ở truyện ngắn văn xuôi, mà ngay trong thơ ta thấy tương lai mịt mù với
những lời thán ca đau đến nhức nhối lòng người:
"Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu"
(Thế
hệ chiến tranh)
Với cái nhãn quan như vậy, cho nên người lính
Trần Hoài Thư luôn ước nguyện, hy vọng trở về quê hương, nơi có cuộc
sống bình dị, và cũng thật yên bình: “…Anh nghĩ rồi đây chiến
tranh sẽ chấm dứt. Miền Nam và miền Bắc sẽ sum họp. Mọi người sẽ ngồi lại và
tha thứ lẫn nhau. Rồi em về Nha Trang. Anh cũng trở lại cùng Nha Trang. Anh sẽ
xin dạy trở lại. Rồi anh sẽ xin cưới em…” (Nha Trang).
Và cái suy nghĩ đơn giản, vô tư ấy, ông đã
trả giá bằng chính những năm tháng ngục tù, rồi buộc phải cùng với
con thuyền lá tre kia lao ra biển cả.
Có thể nói, tính nhân đạo là đặc trưng nổi
bật nhất, xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Trần Hoài Thư. Cái tình
người, và sự cảm thông ấy không chỉ nằm trong tình đồng đội, tình
đồng bào, mà nó còn là hơi ấm cho cả những người lính ở bên kia
của chiến tuyến. Cái đặc tính này, gần đây dường như nó được tiếp
nối một cách rất sâu sắc trong trang văn, truyện ngắn của đồng đội
ông, nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Ngày Thanh Xuân, một truyện ngắn điển hình như
vậy, được Trần Hoài Thư viết vào mùa xuân 1972. Chúng ta hãy đọc lại
lời thoại của hai đoạn trích dưới đây giữa một tù binh bị thương
miền Bắc với người lính miền Nam, khi ở ngoài chiến trường, cũng như
lúc ở quân y viện. Để thấy rõ tài năng miêu tả diễn biến nội tâm
nhân vật, cũng như sự nhân đạo và sự cảm thông ngút trời ấy của
Trần Hoài Thư:
“Mong anh hiểu trách nhiệm và bổn phận của
chúng tôi, những người lính khác trận tuyến với các anh. Anh hãy để chúng tôi
săn sóc. Hy vọng một ngày hòa bình, anh sẽ trở về quê hương và tôi được dịp đáp
tàu ra Bắc, như niềm mơ ước của tôi. Mời anh một điếu thuốc thơm, anh vui lòng
chứ? Anh uống cà phê nhé. Cà phê tôi mang theo trong bi-đông…
Nếu tôi còn ở miền Bắc, có lẽ bây giờ
tôi là đồng chí của anh. Chúng ta đều bị bắt buộc cầm súng. Chúng ta bị chủ
nghĩa, ngoại bang, các thế lực quốc tế xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của hận thù.
Anh đồng ý với ý kiến của tôi không? - Phải, tôi đồng ý – Y thầm thì – Tôi đã
hiểu rằng những người tuổi trẻ của Việt Nam là những đứa con tội nghiệp. Chúng
ta lỡ sinh vào một thế kỷ bất hạnh nhất. Chúng ta được giao truyền lại một gia
tài bi đát nhất…”
Không chỉ đối với những người còn sống, hay
người tù binh tàn tật, mà lòng nhân đạo, và tình thương ấy đến với
cả người lính đối phương vừa chết trận của Trần Hoài Thư. Và nếu
văn là những lời sẻ chia, cảm thông, thì thơ ông như một tiếng ru cho
linh hồn của đồng loại đã nằm xuống trong trận chiến này. Tôi đã
đọc khá nhiều thơ của những người lính, thuộc cả hai chiến tuyến
viết cho đồng đội nằm xuống. Từ đó có thể nói, Khi Chưa Có Mùa Thu
là một trong những bài thơ hay nhất của người lính phía Bắc Trần
Mạnh Hảo. Và vắt cơm nhòa nước suối, hay nhòa nước mắt để viếng
(cúng) đồng đội của Trần Mạnh Hảo làm cho người đọc phải rưng rưng,
xúc động: ”Vắt cơm nhòa nước suối/ Viếng bạn mình không ăn”. Nhưng đặc
biệt, cao cả hơn thế nữa, người lính phương Nam Trần Hoài Thư đã tiễn
đưa hồn người lính Bắc bằng những ly rượu nồng với những câu thơ đẹp
và vô cùng lãng mạn, đọc lên ai cũng bùi ngùi, xót xa. Và tôi tin
lúc đó, Trần Hoài Thư đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh,
mà chỉ còn trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ,
để viết nên bài thơ này. Tôi không dám nghĩ, đây là bài thơ độc nhất
vô nhị, dù được viết trong lúc chiến tranh đang diễn ra ác liệt. Nhưng
có lẽ, nó là bài thơ lạ lùng nhất đến nay tôi được đọc. Vâng! Và
chính nó, bài thơ Một Ngày Không Hành Quân của Trần Hoài Thư đã làm cho
những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này:
“…Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hoàn toàn không có ý so sánh, nhưng như có
một sợi dây liên cảm, bởi khi đọc truyện ngắn Chiến Tranh của Trần
Hoài Thư, làm cho tôi nghĩ đến những người lính gian khổ chống phát
xít trong tiểu thuyết, tập truyện: Họ Đã Chiến Đấu Vì Tổ Quốc, hay
Số Phận Con Người… của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov. Trong cái không
khí mịt mù khói lửa ấy, sự nguy hiểm, gian nan càng tăng lên, thì
tình chiến hữu đồng đội của họ càng hòa quyện chặt vào nhau hơn.
Và đứng trước thất bại cũng như cái chết, dường như đã cho Trần
Hoài Thư nghị lực vượt qua tất cả để sống, để viết trả nợ đồng
đội. Lời văn tự sự nhanh và mãnh liệt, với ngôn ngữ, câu thoại mang đậm
tính điện ảnh, gần tâm lý độc giả Âu- Mỹ, Trần Hoài Thư đã cho ta
thấy rõ điều đó:
“- Mày hãy
nghe tao nói. Mày là nhà văn. Tao là độc giả của mày. Mày phải sống. Mày nghe
rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại...
Rồi hắn gào
lớn:
- Phải viết
lại cảnh này. Thằng Trí, thằng Luông đang nằm cạnh tao đây cũng cần mày. Thằng
Trí cõng tao, rồi chết vì tao... Mày hãy nói cho mọi người biết về những cái chết
chó má như thế này. Chết mà không được bắn một viên đạn như thế này...
- Tư. Tao
xin nghe mày. Tôi đau đớn nói.
- Tao dẫu sống
cũng vô ích. Hai chân tao, ngực tao, ruột tao... Chỉ còn cái đầu tao là không
trúng đạn... Rồi hắn la. Không, hắn mắng tôi.
- Sao lại
không chịu chạy. Mày hèn à. Diều hâu mà hèn à…”
Chập chờn ký
ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan xen, tạo nên hình
ảnh so sánh ẩn dụ làm cho người đọc phải ám ảnh rờn rợn, xuyên
suốt những tác phẩm của Trần Hoài Thư. Với thủ pháp nghệ thuật
này, đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công, cũng như tên tuổi tác
phẩm, tác giả Trần Hoài Thư. Nhiều thế hệ các nhà văn trẻ sau ông
sử dụng khá thành công thủ pháp nghệ thuật này, đặc biệt cuốn Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Và Mắt Đêm là một truyện ngắn điển
hình như vậy của Trần Hoài Thư. Tuy khoác áo lính, bước vào cuộc
chiến là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng Trần Hoài Thư luôn giữ vững quân
kỷ của người trung đội trưởng, và trách nhiệm bảo vệ dân chúng,
đồng bào được ông đặt lên hàng đầu. Đọc nó, không chỉ thấy được cái
tình của người lính Việt Nam Cộng Hòa đối với người dân nơi chiến
trường (dù biết họ có thể là nằm vùng, hay có quan hệ, che chở cho
những người lính Bắc) mà Trần Hoài Thư còn đưa ta ngược về ký ức
với hình ảnh tuổi thơ xa vời vợi của ông. Có thể nói, đây là một
trong những truyện ngắn hay nhất của Trần Hoài Thư được viết trong
thời kỳ này:
“Thằng
Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt. Tôi gọi giựt: Khoan đã. Muốn chết
hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong hầm, bọn nó núp trong hầm,
thiếu úy. Tôi nạt: Mà tưởng bắt bọn nó dễ dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu
đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân
không thì? Tôi chỉ tay vào trái lựu đạn cay, sao mày không dùng thứ này?...
Tôi không
thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn
bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra cánh đồng chói nắng… Tôi muốn
nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi
trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu,
trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn
lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm
vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu.”
Vẫn những đêm
ngủ rừng, hay trên gò mả giữa cánh đồng trắng trơn, hoặc xông vào
những trận đánh kinh hồn, nhưng dường như giấc mơ, nỗi nhớ vẫn không
thể thiếu trên mỗi chặng đường hành quân của Trần Hoài Thư. Tình yêu
và cái thuở ban đầu ấy, như những cơn mưa đầu mùa tưới mát cho tâm
hồn chai sạn của người lính chiến. Với tôi, trong các nhà văn quân
đội VNCH (trực tiếp cầm súng) nơi chiến trường ác liệt, viết nhiều
và hay nhất về tình yêu, và cái thuở học trò, chắc chắn phải là
Trần Hoài Thư. Thật vậy, đọc truyện Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình
của ông, cho tôi cảm giác như đang đọc một bài thơ. Một bài thơ tự sự
đầy hình tượng về sự tiếc nuối một mối tình đầu của thuở hoa niên.
Tuy nhiên ông bạn nhà thơ già của tôi, ghé mắt đọc, không cho là như
vậy. Vì thế, khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi chưa biết để Nụ
Hoa Vàng Của Ngày Si Tình ở mục truyện ngắn, tùy bút, hay một trang
thư…Nếu đây là một lá thư, thì có lẽ, đây lá thư tình hay nhất mà
tôi đã được đọc. Và đọc nó, khẳng định thêm một lần nữa tài năng
miêu tả tâm lý, nội tâm nhân vật của nhà văn Trần Hoài Thư:
“…Trên mái
ngói đỏ của ngôi trường nữ trung học, có đôi chim bồ câu âu yếm tỉa lông cho
nhau. Nhưng, riêng anh, cả lòng như một bến ga quạnh quẽ. Đứng bơ vơ, mà nghe
trong gió có một cung đàn kỷ niệm. Cung đàn ấy, vọng từ một cõi nào xa xôi lắm,
có vỉa hè Đồng Khánh, có cả rừng bướm trắng dập dìu, và có một kẻ tình si đang
trồng chân như cây phượng vĩ già nua, nhìn theo một cánh bướm, qua sông vĩnh biệt…”
Trong văn học
sử miền Nam có hai ông nhà văn vừa cầm súng vừa viết Phan Nhật Nam
và Trần Hoài Thư, cùng chung cảnh cải tạo tù tội sau 1975, nhưng lại
có văn phong khác hẳn nhau. Nếu văn Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo,
thì văn Trần Hoài Thư trầm lắng, hình tượng. Phan Nhật Nam động thì
Trần Hoài Thư tĩnh. Âu đó cũng là sự may mắn làm phong phú thêm cho
nền văn học Việt Nam.
Và Viễn Thám
là một truyên ngắn hay, có lời văn đẹp, tĩnh lặng như vậy của Trần
Hoài Thư. Đây là truyện ngắn làm cho người đọc ngạc nhiên, bất ngờ
và gây ra nhiều tranh cãi. Nó mở ra tư tưởng cũng như nhân sinh quan
của ông. Có lẽ, không riêng tôi, mà còn nhiều người đánh giá cao giá
trị nội dung cũng như quan niệm, thay đối tượng thẩm mỹ trong chiến
tranh của tác giả trong truyện ngắn này. Hơn thế nữa, nó không chỉ
đẹp trong từ ngữ lời văn, mà trong cả tâm hồn và trong cái tình của
người lính thám báo, nhà văn Trần Hoài Thư. Và nó khác hẳn hình
ảnh người thám kích dã man, tàn bạo trong truyện của Bảo Ninh và
Dương Thu Hương. Tôi nghĩ, Bảo Ninh, Dương Thu Hương viết Nỗi Buồn Chiến
Tranh và Vô Đề vào những năm cuối thập kỷ tám mươi của thế kỷ
trước, khi chưa bốc (hết) được ngôi mộ với con ma xó tuyên truyền bấy
lâu ra khỏi linh hồn mình. Nếu những cuốn sách ấy được ra đời vào
thời điểm ngày nay, có lẽ sẽ khác đi chăng? Đọc truyện này, có lẽ
nhiều người phản bác, cho rằng Trần Hoài Thư hành động bằng cảm
tính. Và bằng chứng dường như có những đoạn văn của ông bị xét
duyệt cắt bỏ khi in ấn vào thời điểm ấy chăng? Ơ hay! Trần Hoài Thư
mang trái tim nghệ sỹ vào chiến tranh cơ mà. Và trong chiến tranh
dường như, những người nghệ sỹ cầm súng luôn có tâm hồn, suy nghĩ như
vậy. Nhưng dám hành động, và viết thành lời như ông không phải ai
cũng đủ dũng khí. Chúng ta đọc lại một đoạn trích trong Viễn Thám
(tuy nhiên, có đoạn khi duyệt đã cắt bỏ?) để thấy rõ điều đó:
“Trung đội
thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã
không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính
đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người
thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu (…) Tiếng hát như nói lên những
điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam…. Tiếng hát như dậy khỏi mồ,
bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc lá như thể thôi lay động trên
cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim
thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu"
Có thể nói,
chất liệu trong văn thơ Trần Hoài Thư có được từ thực tế bản thân và
đồng đội. Ông đã trải nó lên trang văn dưới nhãn quan của riêng mình.
Tuy có cái nhìn bi quan về cuộc chiến, nhưng nó lại bật lên tính nhân
đạo ngút trời trong từng trang viết của ông.
Tính
bi hài và những nỗi đau.
Có lẽ không ai
nghĩ, một thư sinh với sức trói gà Trần Hoài Thư có sức phản kháng
mãnh liệt đến vậy. Sự phản kháng ấy, không chỉ có trên trang văn, mà
còn mãnh liệt hơn trước những bất công ở ngoài đời. Trần Hoài Thư
tự động rời bỏ quân ngũ trước phi lý của số phận đã chứng minh cho
điều đó. Và từ đó, cho ta thấy được tính khí khái trong con người
ông. Chứ thành thật mà nói, một nhà văn dù có sống ở chế độ nào
cũng vậy, cứ cúi mặt xuống viết dưới cái bóng của các đấng ngồi
trên, thì không bao giờ có được những tác phẩm ra tấm ra miếng.
Ngay ngày đầu,
Trần Hoài Thư đã nhận ra cái bất công và số phận hẩm hưu của những
người lính nơi tiền đồn. Do vậy, những cay đắng, khắc khoải đó như
nén chặt trong lòng văn nhân. Và rồi, một lúc nào đó, nó sẽ chảy
ộc ra bằng văn, bằng thơ, trải dài trên trang giấy, đọc lên ai cũng
phải xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…”
(Lính tiền phương)
Vâng! Và người
lính ấy chưa chết hẳn, nhưng trở về với đôi nạng gỗ trên tay. Đọc
truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, ta không chỉ thấy được sự lên án, mỉa mai,
mà còn thấy được sự tàn nhẫn của chiến tranh. Và hình ảnh người
lính cụt chân ấy, cứ tưởng mình còn nguyên vẹn, nhảy phắt xuống
giường, bị ngã úp mặt xuống đất, dường như đẩy tính bi hài, và nỗi
đau lên gấp bội. Phải nói thẳng, miền Nam có nhiều nhà văn lớn và
tài hoa, nhưng tài năng đưa hình ảnh, hình tượng vào trong văn nhiều
và hay như Trần Hoài Thư quả thực không nhiều:
“Nửa đêm, cả
lòng đêm bỗng dưng bị dội lên bởi những quả đạn rơi rất gần khu bệnh xá. Những
tiếng la thất thanh. Pháo kích! Pháo kích! Tiếp sau là những bóng người vụt chạy
ra hầm núp ngoài sân. Tên thương binh cụt chân, trong cơn bấn loạn tột độ ngỡ
mình vẫn còn lành lặn như xưa, đã ào nhảy xuống giường. Sau đó, hắn mới biết được
sự thật. Hắn ôm khúc đùi rên rỉ và nằm ngay dưới nền. Hắn không còn nhận ra cặp
nạng nữa…”
Đọc và nghiên
cứu tôi thấy rất có lý, khi nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh nhắc đến
cái chất giản dị trong văn của Trần Hoài Thư. Thật vậy, ngoài cái
giản dị trong sáng, văn thơ Trần Hoài Thư không hề đao to búa lớn.
Chính những đặc điểm ấy, đã giúp tôi đọc hết tất cả những gì ông
viết, khi bắt gặp, hoặc tìm thấy, dù bất kể đề tài, thể loại nào.
Qủa thật, tôi rất sợ đọc những bài viết lên gân quá mức cần thiết
khi viết về người lính Việt Nam Cộng Hòa của một số tác giả gần
đây. Thường những bài này, tôi bỏ nửa chừng. Là người, kể cả người
lính dù có lý tưởng gì gì đi chăng nữa, trước cái chết ai mà chẳng
sợ. “Cái chết nhẹ tựa lông hồng” không phải ai, và hoàn cảnh
nào cũng có thể dùng được. Ta đọc lại những câu thoại giữa hai
người lính (là thày, trò cũ của nhau) cùng bị thương dưới đây,trong
truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, để thấy cái day dứt, bi hài đi thẳng vào
lòng người, tuy từ ngữ rất mộc mạc:
“- Trời ơi,
một người mang cặp kính nặng như thế mà họ vẫn không chịu buông tha sao thầy?
Minh cười:
- Họ nói là
điếc thì không sợ súng, còn mang hai cặp mắt mới dễ bắn VC hơn.
- May mà em
cụt một chân, nếu mù một con mắt họ vẫn bắt em đi ra đánh giặc trở lại.
- Thầy
không buồn đâu. Bởi vì dù sao thầy là sĩ quan, là thiếu úy, thầy vẫn còn sướng
hơn những người lính khác. Trung đội thầy có thằng mang đại liên, tên là Nga,
Võ hồng Nga, to đen như Mỹ đen, nhưng bị cận thị nặng. Đi hành quân, nó không
thấy đường, cứ nhằm chỗ VC mà tiến. Cuối cùng nó chết.
- Thầy biết
không, bởi vì nó không cổ cánh….”
Chết hoặc trở
thành tàn phế chưa phải là điều đáng sợ của người lính, mà cái
đáng sợ nhất nhận lệnh, buộc phải thi hành của những người lãnh
đạo quan liêu, và dốt nát. Đọc truyện Thế Hệ Chiến Tranh dường như
cho ta một cảm giác, đây là một bản cáo trạng của nhà văn thì đúng
hơn:
“Suốt cả một
buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn không thể bò xuống đồi. Tư bị đạn trúng
bã vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn làm bể cả bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy
thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại thì chết bởi những họng súng đang săn mồi
từ cao điểm. Rõ ràng đây là một cuộc thí quân. Họ ra lệnh chúng tôi phải chiếm
đồi với M16, và lựu đạn, trong khi địch ẩn núp trong những hang kiên cố, với lợi
thế là thấy rõ chúng tôi, còn chúng tôi thì như những kẻ đui mù…”
Không dừng lại
nơi chiến sự, Trần Hoài Thư tiếp tục chọc thẳng vào cái ung nhọt
thượng tầng của xã hội. Khi ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế
hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài
năng này. Nếu gần đây, ta đã đọc bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung
tá, nhà văn Song Vũ, thì thấy được, những con sâu ở giới lãnh đạo
thượng tầng này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ
Việt Nam Cộng Hòa. Có thể nói, tuy miền Nam được tự do viết lách,
nhưng ở vào thời điểm đó, Trần Hoài Thư viết thẳng tưng như thế này,
quả thật cần lắm một sự dũng cảm. Và đoạn trích dưới đây, chứng
minh cho ta thấy sự thối nát cũng như sự can trường của nhà văn:
“Trong khi
bạn bè thầy, bạn bè em cứ tiếp tục bị chết, thì ở Sài Gòn người ta vẫn ăn chơi
phè phỡn, đô la thuốc phiện và tran giành quyền lực bằng những thủ đoạn chính
trị bẩn thỉu. Ngay tại nơi này, những đồn điền mênh mông, những khu rừng cấm mà
bọn mình đem xương máu bảo vệ là tài sản của các tướng tá hay các lãnh tụ ở Sài
Gòn. Chúng ta cứ chết, mặc nước mắt của người mẹ, người em, để những mệnh phụ
phu nhân, những bà lớn nắm quyền mua quan bán chức. Họ đục khoét tiền viện trợ
Mỹ, con cái họ được chạy đi du học để trốn tránh trách nhiệm.”
Nỗi đau, sự
trớ trêu trên những trang viết Trần Hoài Thư không dừng lại một gia
đình, một tỉnh thành, mà cho toàn dân tộc Việt. Có thể nói, từ
ngày lập quốc đến nay chưa có trận chiến nào tang thương, thù hận
bằng cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn vừa qua. Trần Hoài Thư chứng
kiến những hiện thực bi hài trớ trêu ấy, và tái hiện vào những
trang sách, nên đôi lúc tôi cứ nghĩ, ông không dừng lại ở nhà văn, mà
còn như một nhà sử học vậy. Nếu truyện Người Anh Hàng Xóm, cuộc
đối đầu nhau trên chiến trường giữa hai cha con đều là trung đoàn
trưởng ở hai phía, thì truyện Về Làng là nỗi đau của một người
lính Việt Nam Cộng Hòa trước người chú và chị ruột theo CS, bị
chính đồng đội của mình bắn chết… Đây là hai câu chuyện điển hình
nhất trong nỗi bất hạnh của dân tộc trên trang viết của ông. Và nó
cứ ám ảnh đeo vào lòng người một sự day dứt, không thể dứt
bỏ.
Có một điều
đặc biệt nữa, truyện nào của ông cũng mang một nỗi u hoài của sự
chia ly, chết chóc với những cái kết bất ngờ bỏ ngỏ, buộc người
đọc phải suy nghĩ. Nói Trần Hoài Thư là nhà văn của những nỗi đau,
thì quả thật không ngoa tẹo nào.
Khi các nhà
văn cùng thời thường khai thác đề tài ít va chạm với quyền lực, xã
hội, hoặc viết về những trận đánh, chiến công oai hùng của người
lính, thì Trần Hoài Thư đi vào bới móc cái bóng đen của chiến tranh,
cũng như xã hội con người. Một đề tài khó nhằn, khó nuốt.
Nói cho cùng,
xã hội, quân đội nào cũng vậy, đằng sau cái hào nhoáng đó, nó còn
ẩn nấp bao thứ tồi tệ và bệnh hoạn khác. Và rất cần những nhà văn
như Trần Hoài Thư bóc trần, rồi cắt bỏ.
Ba
mươi tháng tư, và linh hồn rách nát.
Vậy là chiến
tranh đã kết thúc, người lính thám kích Trần Hoài Thư không thể về
Nha Trang cưới em, và trở về nghề dạy học của mình, như ước nguyện.
Nam- Bắc thống nhất, nhưng không thể tha thứ cho nhau, và người lính
thua trận ấy bước vào vòng lao lý. Bốn năm lưu đày ấy như bốn ngọn
roi quất vào tâm hồn văn nhân. Cặp bộ đội đứng hát bên bờ suối năm
xưa, nay đã thành người quản giáo. Tiếng hát ngày nào đổi thành lời
rao giảng, để hành hạ nhau. Đói và rét làm cho người người lính, văn
nhân mất đi cả lý trí. Mình là ai? Sinh vật hay con người? Có lẽ chỉ
có trời mới biết. Sự phản ứng vô ý thức ấy của văn nhân buộc tôi
tự hỏi: Nếu bây giờ trở lại hoàn cảnh năm xưa, người thám kích Trần
Hoài Thư có bắn cặp bộ đội đang hát bên suối hay vẫn tha? Và trái
tim văn nhân có còn sống vĩnh cửu? (như ở truyện Viễn Thám). Ta đọc
lại đoạn trích trong truyện ngắn Ra Biển Gọi Thầm, để so sánh tư tưởng,
ý thức, hành động trước và sau 30-4-1974 của nhà văn Trần Hoài Thư:
"Nó
cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh vật nào. Nó đái lên những con cá lóc cá trê
nó câu được trước khi nạp phần cho cán bộ quản giáo. Nó thầm lén phạt đứt cọng
mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi hắn ngồi nghe chính trị viên lên lớp.
Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên. Bởi nước thì quá sâu, và chảy quá mạnh.
Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch, cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa
đạp, hai tay vừa kéo. Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm
răng nó đánh cầm cập. Nó lại đóị Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó
khiến nó cứ thở dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó
đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần biết nữa…"
Với tôi, Ra Biển
Gọi Thầm là truyện ngắn hay và cảm động nhất trong tập truyện cùng
tên. Truyện này, Trần Hoài Thư viết khi ông đã vượt thoát sang Hoa Kỳ.
Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn của ký ức, ông đã đưa
người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng
tuyệt đẹp, nhưng cũng tuyệt vọng của mình. Tôi đã đọc khá nhiều
truyện, ký của các tù nhân, cải tạo, nhưng đây là lần thứ hai đọc
truyện viết về tình yêu trong thời gian tù của họ. Và trước đó, là
truyện Nghỉ Hè Ở Mallorca của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Dường như càng
lớn tuổi, nhất là từ sau 1975 càng gian nan Trần Hoài Thư kiệm lời
hơn, nên đi vào sự cô đọng, sâu lắng của thơ. Hơn bốn năm tù, với một
linh hồn rách nát, đủ để cho ông nhìn lại. Dù nhận được lời mời
vào hội văn thơ, nhưng ra đi là con đường duy nhất của ông. Và con
thuyền lá tre chòng chành giữa biển khơi mênh mông bão tố ấy, chở ông
đi tìm tự do, hay tìm về cõi chết? Đọc bài thơ Đêm Ra Biển của Trần
Hoài Thư làm cho tôi phải rợn tóc gáy:
"…Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát…"
Vậy là Trần
Hoài Thư đã vượt qua được những chớp tử sinh. Đến được bến bờ tự
do, nhưng ông cảm thấy mình bất hạnh hơn. Mâu thuẫn trong tư tưởng,
tình cảm luôn giằng xé văn nhân. Và từ đây, ông như con thuyền không
lái, chòng chành hơn, bởi đã mất quê hương:
"Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương"
(Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Có thể nói,
sau 1975 và từ khi định cư ở Hoa Kỳ, Trần Hoài Thư viết nhiều hơn. Ông
viết cho mình, viết cho đồng đội, cho quê hương. Mỗi trang sách, bài
thơ của ông như những đường kim sợi chỉ, vá lại linh hồn cho bao người
đã bị rách nát trong chiến tranh, và trong những ngày trốn chạy lưu
vong.
Tuy chưa phải
là nhà văn lớn, nhưng Trần Hoài Thư là một trong những nhà văn điển
hình nhất trong hai mươi năm nội chiến của nền Văn học Việt Nam.
Viết bài này,
khi tài liệu thơ văn của Trần Hoài Thư, tôi có không nhiều, chủ yếu
tìm đọc trên Internet, (và cũng chưa một lần gặp gỡ ông). Do vậy,
không có hệ thống, có thể còn sai sót và chưa lột tả, đi hết cái
tận cùng con người, cũng như thế giới mênh mông văn thơ Trần Hoài Thư.
Nhưng đây như một lời tạ ơn của kẻ hậu bối, đến một nhà văn suốt
đời hy sinh, tận tụy cho văn chương nước nhà.
Và hình ảnh Trần Hoài Thư, ngồi vá lại
những linh hồn in đậm trong lòng, đã thôi thúc cho tôi viết bài này.
Leipzig ngày 22- 5-2017
Đỗ Trường
Đọc
thêm: Một vài bài thơ của Trần Hoài Thư:
Một ngày không hành quân
Xin cô hàng thêm một két bia
Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết
Cô hàng ơi, một mai tôi chết
Ai tiêu dùm, ba tháng tiền lương
Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn
Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc
Tôi nói làm sao qua giòng nước mắt
Thị trấn này vừa mất thằng con
Tôi quá buồn ra đứng bờ sông
Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm
Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám
Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam
Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em
Xin cô hàng thêm một chút từ tâm
Tôi quen đập đầu mỗi khi say rượu
Đừng sợ cô em, những thằng đánh giặc
Nhảy Diều Hâu nhưng thật yếu mềm
Em có đôi hàng lông mi thật đen
Tôi bỗng nhớ người tôi yêu, quá đỗi
Đôi mắt nàng cả một trời vô tội
Sao lòng nàng lại tàn nhẫn vô tâm
Khi tôi buồn tôi nói trăm năm
Có nghĩa là tôi vẫn còn muốn sống
Đừng nhắc cùng tôi người tôi yêu dấu
Kẻo tôi lại sầu, mửa hết mật xanh
Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết
Cô hàng ơi, một mai tôi chết
Ai tiêu dùm, ba tháng tiền lương
Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn
Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc
Tôi nói làm sao qua giòng nước mắt
Thị trấn này vừa mất thằng con
Tôi quá buồn ra đứng bờ sông
Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm
Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám
Thấy cả ngọn đồi những xác Bắc Nam
Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em
Xin cô hàng thêm một chút từ tâm
Tôi quen đập đầu mỗi khi say rượu
Đừng sợ cô em, những thằng đánh giặc
Nhảy Diều Hâu nhưng thật yếu mềm
Em có đôi hàng lông mi thật đen
Tôi bỗng nhớ người tôi yêu, quá đỗi
Đôi mắt nàng cả một trời vô tội
Sao lòng nàng lại tàn nhẫn vô tâm
Khi tôi buồn tôi nói trăm năm
Có nghĩa là tôi vẫn còn muốn sống
Đừng nhắc cùng tôi người tôi yêu dấu
Kẻo tôi lại sầu, mửa hết mật xanh
Quán sớm
Quán sớm cô hàng nhăn nếp lụa
Tóc còn vương vít lòng chiếu chăn
Nước sôi reo ấm gian nhà chật
Bếp lửa hồng. Gió tạt. Mùa đông
Gọi cốc cà phê un khói gió
Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân
Vách trống, sát vào nhau đỡ lạnh
Trời ngoài kia sương phủ mênh mông
Năm giờ. Thành phố còn im lặng
Những chuyến xe đầu run rẩy qua
Con đường sương khói hai hàng nến
Những nhánh cây đen đụng mái nhà
Năm giờ. Hết phép chờ xe hốt
Từ biệt cô từ biệt bạn bè
Từ biệt một ngày trai phóng đãng
Mai về trên ấy thiếu cà phê
Tóc còn vương vít lòng chiếu chăn
Nước sôi reo ấm gian nhà chật
Bếp lửa hồng. Gió tạt. Mùa đông
Gọi cốc cà phê un khói gió
Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân
Vách trống, sát vào nhau đỡ lạnh
Trời ngoài kia sương phủ mênh mông
Năm giờ. Thành phố còn im lặng
Những chuyến xe đầu run rẩy qua
Con đường sương khói hai hàng nến
Những nhánh cây đen đụng mái nhà
Năm giờ. Hết phép chờ xe hốt
Từ biệt cô từ biệt bạn bè
Từ biệt một ngày trai phóng đãng
Mai về trên ấy thiếu cà phê
Khu Sáu Quy Nhơn, 1969
Đêm từ biệt VN
Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch
Có những con người lại cách ngăn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch
Có những con người lại cách ngăn
Chào những đường thân, những lối quen
Những hàng cây rũ lá bên thềm
Chào cây cầu đá qua thành phố
Chào những bờ hiên, những cột đèn
Những hàng cây rũ lá bên thềm
Chào cây cầu đá qua thành phố
Chào những bờ hiên, những cột đèn
Chào ai, lầm lũi trong đêm lạnh
Cơn gió giao mùa chớm lá xuân
Người về cho kịp đêm đoàn tụ
Ai lại lên đường. Ai lặng câm
Cơn gió giao mùa chớm lá xuân
Người về cho kịp đêm đoàn tụ
Ai lại lên đường. Ai lặng câm
Vẫn biết lần đi là bỏ hết
Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn
Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ
Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông
Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn
Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ
Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông
Về đi. Em nhớ đừng ôm mặt
Rồi thắp giùm anh một nén nhang
Con có hỏi anh. Em hãy chỉ
Mây dịu dàng trôi giữa mênh mông
Rồi thắp giùm anh một nén nhang
Con có hỏi anh. Em hãy chỉ
Mây dịu dàng trôi giữa mênh mông
Về đi để tiếp đời cô phụ
Tiếp mảnh hồn khô héo nhớ nhung
Mai mồng Một, cắn răng đừng nấc
May cuộc đời tươi đẹp mùa xuân
Tiếp mảnh hồn khô héo nhớ nhung
Mai mồng Một, cắn răng đừng nấc
May cuộc đời tươi đẹp mùa xuân
Về đi để trả bài ma quỷ
Những đau thương câm nín chất chồng
Em hãy lấy ngày này giỗ kỵ
Một ngày nào chim đã bặt tăm
Những đau thương câm nín chất chồng
Em hãy lấy ngày này giỗ kỵ
Một ngày nào chim đã bặt tăm
Về đi, kẻo máy tàu đã nổ
Như những người ôm ngực con tim
Trong khoang chật, nghe chừng nín thở
Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh
Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá
Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh
Đêm vượt thoát ai ngồi nín thở
Cả quê nhà, mờ nhạt hai bên
Như những người ôm ngực con tim
Trong khoang chật, nghe chừng nín thở
Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh
Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá
Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh
Đêm vượt thoát ai ngồi nín thở
Cả quê nhà, mờ nhạt hai bên
Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Một vệt mờ xa thẳm
Một chút rưng rưng bật xé lòng
Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam
Việt Nam. Một vệt mờ xa thẳm
Một chút rưng rưng bật xé lòng
Việt Nam. Tối quá, không đèn lửa
Ta ở trên thuyền ngực vỡ toang
Một nỗi buồn như đông đặc lại
Một nỗi vui oà vỡ cả hồn
Ta ở trên thuyền ngực vỡ toang
Một nỗi buồn như đông đặc lại
Một nỗi vui oà vỡ cả hồn
Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương
Là lúc lòng dửng dưng chờ đợi
Nỗi dửng dưng buồn bã lạ lùng
Như thể trong một trời chuyển động
Một giọt sương cô độc tận cùng (*)
Nỗi dửng dưng buồn bã lạ lùng
Như thể trong một trời chuyển động
Một giọt sương cô độc tận cùng (*)
(*)
Khi thấy con tàu CS đuổi theo, nghĩ đến một lần tự tử, nhìn xuống biển. Không
thấy biển mà chỉ cảm nhận một con người Việt Nam bị săn đuổi bị bủa vây, bị
hành hạ, bị tròng vào cổ mà kéo như con thú , và cuối cùng, là một lần nhắm mắt,
cô độc như một giọt sương…