TẢN MẠN ĐỜI SỐNG DÊ
Nguồn gốc của Dê
Dê sống hoang giã 50.000 năm trước
tại: Á Châu, Âu Châu và Phi Châu trên đồi núi nên gọi là wild goat/ Wildziegen.
Dê có thân hình dài từ 1,2 đến 1,6m, đuôi dài 15-20 cm, cao từ 0,7 m đến 1m, trọng
lượng tùy theo dê đực hay dê cái nặng từ 25 kilô đến 100 kilô. Khoảng 8000 -10.000 trước CN thì
loài người bắt dê về thuần hóa thành gia súc như: gà, chó, heo, ngựa, trâu,
bò.
Dê
có tên khoa học Caprinae thuộc loại động vật có vú (Mammalia), bộ móng chân
(Artiodactyla), loại nhai lại (Ruminantia) có sừng rổng (Bovidae). Dê có 8 răng
cửa hàm dưới, không có răng hàm trên. Dê nuôi có hơn 100 giống khác nhau. Các loại Steinbock/Sơn dương Gaemse/
Linh dương. Schneeziege sinh sống ở Rocky Mountains trên cao 4000m ở Hoa
Kỳ; Iberissche Steinbocke vùng Bán đảo
Tây Ban Nha; Schraubenziege dê rừng ở Pakistan, Himalaya…
Loại dê Angoraziege lông dài, mỗi
con hàng năm cắt lông được 3-5 kilo dùng làm len, thảm, chăn mền. Thủ đô Ankara
tên cổ Angora, len Angora (phát xuất từ Angora gốc Thổ Nhỉ Kỳ/Turkey). Vùng
Kaschmir thung lũng giữa dãy Himalaya và Pir Panjal, có loại dê Kaschmirziege
lông dài đủ màu sắc, hằng năm mỗi con cung cấp từ 150 und 200 Gramm len, vải
(cashmere) để sản xuất áo len, khăn quàng cổ phẩm chất tốt. Loại dê nầy phần
lớn được nuôi ở Trung Hoa và Mongolei. Hơn 200 năm trước được nhập về Âu Châu
Schottland, năm 1970 Úc, Tân Tây Lan (Neuseeland) thành lập những nông trại nuôi
dê Kaschmirziegen, năm 1989 Hoa Kỳ cũng nhập loại dê nầy nuôi để lấy lông.
Ngày nay người ta lai giống các loại dê to con. Để
đáp ứng với thị trường tiêu thụ thịt dê, Hoa Kỳ nhập giống dê South African
Boer goat từ Nam Phi, dê Boer goat cho phối giống với dê địa phương Spanish
goat để tạo ra những dòng dê có năng suất thịt nhiều hơn. Texas đứng đầu về số
dê nuôi (51%), kế đến là Tennessee. Tại Đức các nông trại nuôi dê nhiều nhất ở
các tiểu bang Baden-Württemberg và Bayern các giống dê Pfauenziege, Edelziege,
Burenziege, theo thống kê về mùa đông mỗi ngày dê ở trong chuồng ăn 3 kilô thực
phẩm và uống 7 lít nước. Hằng năm dê cung cấp từ 800-1200 lít sữa tuỳ theo giống.
Người Đức ít thích ăn thịt dê nên trong siêu thị không bán thịt dê. Ở Munich có
khu chợ Viktualienmarkt gần Marienplatz bán thịt rừng và thỉnh thoảng có thịt dê,
cừu.
Tập tính
Dê cái và dê đực đều có râu, phần
lớn dê đực có sừng, dê cái thì không. Sừng dê có nhiều hình dáng cong ngược về
phía sau, thẳng đứng, uốn cong hình trôn ốc.... Dê rừng sừng dài cong cả mét,
so với dê nuôi sừng nhỏ và yếu hơn, hoặc không có sừng, tai dài hay ngắn hơn tùy
giống. Riêng màu sắc và lông dài ngắn thay đổi tùy theo từng vùng về thời tiết
địa lý khác nhau, những loài dê sống ở vùng nóng thì lông ngắn và thưa, còn dê
sống ở vùng lạnh thì lông dài và rậm hơn, có loại lông dài mịn như lông cừu..
Dê thuộc loại súc vật nhai lại như trâu, bò,
cừu... Bộ máy tiêu hóa của dê được cấu tạo để có thể tiêu hóa được đủ loại thức
ăn khác nhau, dê ăn cỏ cây, các chồi non vỏ cây đủ loại, không kén ăn nhưng thích thay
đổi món, ăn thóc, ngô, sắn, khoai lang, đậu , bí đỏ, chuối,.. Khi ăn dê dùng
lưỡi để vơ lấy đồ ăn (giống như chó, mèo...), dê không nhai kỹ mà chỉ nhai sơ
qua rồi nuốt nhanh. Dê cái từ 6-8 tháng tuổi là đến tuổi động dục. Thời gian dê
mang thai khoảng 140 ngày đến 150 ngày, thường đẻ 2 hay 3 con, tiếng Anh gọi dê
đực Buck hay billy Goat, dê cái là Doe và dê con là Kid nên con nít hay chạy
nhảy như dê con cũng gọi từ Kid, dê con trong sở thú cũng thích ăn bánh kẹo.
Các nông trại người ta nuôi dê bằng hạt bo bo
(oats), rơm, trái cây carot, rau lá.. Dê đều thích leo trèo có thể nhảy từ mỏm
đá nầy sang chỗ khác cao xa hơn. Dê có thể nhịn nước lâu ngày trong sa mạc, có
sức chịu đựng mưa nắng, tuyết phủ...
Dê đực có sức mạnh về sinh lý, thừa sức phục vụ
cho một đàn dê cái, 100 dê cái chỉ cần 4 dê đực. Buổi sáng nào cũng vậy, khi
các nàng dê muốn ra khỏi chuồng chàng dê đực đứng gác ở cổng, “xử” từng em một,
nhanh chóng, đều đặn và thường xuyên. Cả ngày, chàng dê ta chỉ có mỗi việc là
ngong ngóng xem em nào có biểu hiện thèm, là sáp vô tấn công liền. Hàng ngày dê
đực đều làm tình cỡ trên dưới trăm lần, nhưng vẫn khoẻ chạy nhảy! dê đực có mùi
hôi để quyến rũ phái tính? có người cho rằng mùi hôi phát ra từ dưới sừng?
Dê trong sinh
hoạt xã hội
Trong Thập Nhị Ðịa Chi 12 con
Giáp, dê đứng hàng thứ 8. Tính theo tháng (tháng Giêng tính từ Dần), tháng Sáu
thuộc tháng Mùi và trong ngày giờ Mùi từ 13 –15 giờ. Chuyện về dê nhiều ý nghiã
khá đa dạng, sinh động, hấp dẫn và đầy ngụ ý. Từ xưa người ta hay dùng dê để tế
lễ. Dê là một trong ba thứ lễ (Tam sinh) vật đặc biệt để cầu cúng, tế dâng thần
thánh như heo và bò.
Theo thánh kinh
cựu ước,
Thiên Chúa muốn thử lòng trung thành của Tổ phụ Abraham "cha của nhiều dân
tộc", Thiên Chúa phán rằng: „hãy bắt đứa con duy nhất ngươi yêu dấu, là
Isaac và đi đến xứ Moriah, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu..." theo cựu
ước sách Sáng thế ký 22: 2. Để tỏ lòng vâng phục, Abraham dâng con trai mình
Isaac làm sinh tế tại xứ Moriah, ông đưa con lên núi trói Isaac rồi đặt trên
bàn thờ...thì trên trời cao Thiên Chúa phán „hãy ngừng giết con„ Thiên Chúa cảm
nhận được tấm lòng thành của ông nên sai sứ thần hướng dẫn ông đến một nơi khác
có một con dê đang mắc sừng trong bụi rậm, ông Abraham bắt con dê đó làm lễ
dâng lên Thiên Chúa. Do đó trong dân gian mới có câu „Dê tế Thần/ scapegoat“.
Theo Ðại Nam thực lục Chính
Biên. Triều đại vua Minh Mạng (1791-†1840), mùa đông năm Minh Mạng (1836) thứ
17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê cái, chọn 20 con dê đực giao Tể sinh
làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn Thượng có thịt dê ướp dương hải. Minh
Mạng (1840) thứ 21, cho dân chúng miền Trung các dê giống để nuôi, ai nuôi
nhiều thì có thưởng.
Trong thần thoại
Hy lạp, La mã ghi lại Zeus-Jupiter chúa tể các vị thần, lúc sinh ra bú sữa dê pha với
mật ong. Khi tế thần người ta phải dâng
dê, bò thui đốt, tế thần Hecmet cũng phải có mật ong, bánh ngọt, heo và dê con.
Vào thời cổ ở La Mã, trong lễ hội Lupercalia được cử hành vào đầu tháng Giêng
các thầy tế lễ dâng cúng một con dê cầu cho mưa thuận gió hòa.
Theo sách Tấn
thư,
Tấn Vũ Đế (thời Chiến quốc) sống xa hoa, có rất nhiều cung tần mỹ nữ. Đêm đêm
nhà vua thường dùng xe có dê kéo trong hậu cung, cho dê kéo đi đâu thì đi. Các
phi tần biết vậy, thường lấy lá dâu rắc trước cửa phòng mình. Dê thích ăn lá
dâu sẽ ngừng xe lại và người cung phi ấy sẽ may mắn được gặp gỡ với “mặt rồng”
và đựơc Tấn Vũ Đế ân sủng.
Chúng ta thường nghe nói dê là
dương; Ðàn ông nhiều vợ hoặc hay tán tỉnh thì bị gọi là có "thói dê"?
hay „dê cụ/ randy old goat “. Ai có chòm râu cằm rậm hơi cong thì gọi là „râu
dê/goatie” Thanh Việt hài hước trên sân khấu có giọng „cười dê“, hay tánh „be
he“ nói chuyện không thật, trên trời dưới biển. Trong y học có từ „Satyriasis“
chỉ thể lực về sinh lý danh từ "ba lăm" (35) tức là dê xồm, “đã dê
con chị lại bồng con em..” ..
Phượng hoàng đậu nhánh sa kê
Ông thần vật mấy
thằng dê cho rồi
Nếu xét con dê có đời sống
hiền lành như các gia súc khác, lúc làm thịt bị hành hạ đánh cho ra mồ hôi, để
thịt không có mùi hôi, những cái gì xấu thì bị gán ghép cho dê thật là tội
nghiệp. Qua ca dao tục ngữ nói về dê rất hấp dẫn và thâm thúy.
"Máu dê" thể hiện khả năng sinh dục
mạnh mẽ; các cô nói anh ấy „dê quá“. Người Mỹ cũng nói: Let go you randy old
goat! To get someboy’s goat. Bán bò
tậu ruộng mua dê về cày: là mỉa
mai sinh hoạt hằng ngày, không biết tính .
Cà kê dê ngỗng: ám chỉ người ăn
không ngồi rồi, kể lể tản mạn, dài dòng, huyên thuyên những chuyện lặt vặt, vớ
vẩn.
Giàu nuôi chó, khó nuôi dê,
không nghề nuôi ngỗng: chứng tỏ nuôi dê không tốn kém,
không cần chuồng trại, các vùng núi chỉ cần thả dê sống trên núi đồi không tốn
thực phẩm
Máu bò cũng như tiết dê: dù hai thứ tiết khác nhau người ta ăn tiết canh dê không ai ăn tiết canh
bò, câu trên ám chỉ con người không rõ ràng trong các vần đề.
Treo đầu dê bán thịt chó: chỉ người nói một
nơi, làm một nẻo, ba xạo và làm không ăn khớp nhau.
Dương chất hổ bì: chất là chất dê,
da là da hổ. Dùng bề ngoài loè loẹt, giả dối để lừa bịp che đậy thực chất xấu
xa bên trong.
Bịt mắt bắt dê: trò chơi dân gian
trong đó có một người bịt mắt, đuổi theo một con dê, hoặc đuổi bắt một hay
nhiều người giả làm dê kêu be be. Nghĩa bóng là làm một việc khó, có thể đạt
được kết qủa.
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
Em đây luống những ngậm ngùi tuổi Thân!
Trẻ em nhà quê khi chơi trò
dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cửa nhà trời
Lạy Cậu lạy Mợ
Cho Cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây
Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương bà chúa
thơ Nôm, sinh cuối đời hậu Lê không rõ năm sinh. Sau khi Tổng Cóc từ trần, nữ sĩ lập quán bán nước để mưu sinh và giao
thiệp với các bạn văn nhân thi sĩ . Một hôm bọn trẻ dẫn nhau đến yêu cầu Xuân
Hương cho tựa bài thơ, bà đọc bốn câu thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ
Lại đây cho chị dạy làm
thơ
Ong non ngưá nọc châm hoa
rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu
thưa.
Trong
điển cố văn học đã có từ “dương xa” là xe dê các đời vua chúa dùng đi lại trong
cung phi mỹ nữ, trong việc đưa đón ái ân. Trong tập Cung Óan Ngâm Khúc của
Nguyễn Gia Thiều (1741-†1789) cũng có câu:
Phải duyên hương lửa
cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới
vào
Nguyễn
Ðình chiểu (1822-†1888) nhà thơ yêu nước chống thực dân Tây. Trong bài Văn Tế
Nghiã sĩ Cần Giuộc, đã gởi phần tâm sự và lời chê trách người cộng tác với thực
dân, làm tay sai dày xéo dân tộc khổ đau vì nô lệ:
Hai vầng nhật nguyệt chói
lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Mùi tinh chiên vấy đã ba
năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Chê
trách nhân vật Bùi Kiệm trong tuyện Lục Vân Tiên
Còn người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chai bể mặt như sề
thịt trâu
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu
Xin đưa quốc trạng kíp
chầu vinh qui
Một người Bùi Kiệm chẳng
đi
Trong người hổ thẹn cũng
vì máu dê
Theo sử sách ghi chép, dưới thời nữ Hoàng Ðế Cixi (1835-†1908) gọi là
Từ Hi Thái Hậu/Tz’u-hsi, ngay từ rằm tháng hai năm Kỷ Hợi (1873), mỗi tỉnh của
Trung Hoa tiến cử 10 đầu bếp giỏi nhất của mình về kinh, soạn thảo thực đơn.
Sau gần hai tháng chuẩn bị, các đầu bếp thống nhất một thực đơn gồm 140 món.
Trong đó có 7 món đặc biệt “Sơn dương trùng” là một trong bảy món ăn đặc sản
độc đáo...Thịt dê thường đuợc tiêu thụ ở các nước Ấn Ðộ và Trung Hoa. Món ăn
đặc biệt nhất là Curry dê hoặc dê xào lăn. Ngọc Dương là dái dê và Dương Thận
là thận dê cũng là món thuốc trị về yếu sinh lý (?). Người ta nấu cháo ăn hoặc
ngâm rượu với thuốc Bắc và Nhân Sâm. Nguời Tàu có bào chế một vị thuốc gọi là
"Dâm Dương Hoắc" để cường dương bổ thận... Y học hiện đại cũng chế
được từ dê nhiều loại thuốc đặc chủng chữa trị những bệnh về thần kinh, tim,
máu, dạ dày, xương, cơ... Đáng chú ý và phổ biến nhất là thuốc chích ngừa bệnh
dại Semple. Loại vaccine này hiện được hơn 60 nước sử dụng. Ở Việt Nam, từ năm
1952, dùng dê thử nghiệm điều chế vaccine Semple có tác dụng phòng chống chữa
trị bệnh dại là bệnh do virus dại (rabies virus) gây nên. Bệnh dại có thể gặp ở
tất cả động vật có vú, tỉ lệ mắc bệnh tăng cao vào mùa nắng như bị chó dại cắn…..
Thời
danh sư như Hải Thượng Lãn Ông biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác(黎有晫)
(1720 – †1791). tinh thông y học, văn chương, là danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII
được nhiều người kính trọng. Đời nhà Lê ông còn lưu truyền cho hậu thế quyển
sách y học gọi Tắt là Lãn Ông Y Tập, viết từ 1782, khi ChúaTrịnh Sâm Chúa Trịnh
thứ 8) triệu ông ra Thăng Long làm việc.
Tuệ
Tĩnh thiền sư 慧靜禪師, (1330-? †) được phong là ông tổ ngành dược Việt Nam
và là người mở đầu cho nền y dược cổ truyền Việt Nam. là người đầu tiên dạy
nghề thuốc vào đời nhà Ðinh và nhà Tiền Lê, ông truyền lại tập sách Y Học tên là
NAM DƯỢC, ghi chép những điều nghiên cứu và cách thức trị liệu bằng thuốc Nam.
Và sau này đời nhà Nguyễn cùng có nhiều danh y tiếp tục nghiên cứu việc xử dụng
các bộ phận của dê dùng làm thuốc trị bệnh, với y học dân tộc cổ truyền hiện có
trên 20 bài thuốc dùng thịt dê làm đầu vị. Có thể nấu riêng thịt dê, hoặc nấu
cùng xuyên khung, hoặc với một vài vị thuốc thực vật khác. Ví dụ: thịt dê hầm
cùng gừng, đương quy, hoàng kỳ ăn vào chữa hiệu quả những bệnh như: lao lực, ra
mồ hôi trộm, chân tay bải hoải, làm cho khoẻ mạnh thể xác và phấn chấn tinh
thần. Dân Bắc Phi và Á Rạp rất thích món méchoui tức là dê hoặc cừu nguyên con
được lụi qua thanh sắt và đem quay nướng trên lửa.
Nhiều
người nhậu thích thịt dê ngon, tuy nhiên mùi thịt dê rất hôi mà làm cho hết hôi
là cả một nghệ thuật. Các sách dạy về gia chánh viết có nhiều phương pháp: rửa
thịt dê bằng nước gừng, nước sả, lấy một tí giấm, hoặc vắt hai trái chanh vào
tô thịt dê, chế vô một ít dầu ăn, trộn đều và đem cất trong tủ lạnh trong vài
giờ mùi dê sẽ bớt đi, có thể dùng quế để khử bớt mùi dê, hay bóp thịt dê với
rượu trắng có trộn gừng bằm nhuyễn. Sau đó xả lại bằng nước lạnh, có người thì
cho dê uống rượu rồi treo nó lên cây đánh cho nó kêu la đổ mồ hôi cho bay hết
mùi hôi, việc hành hạ súc vật các nước văn minh cấm. Người Ấn Độ thì lấy thịt
dê nấu curry, người Tàu ăn cầu kỳ hơn như món thịt dê tiềm thuốc bắc, ngọc
dương chưng với nhân sâm, đại táo, thục địa, long nhãn... Người Việt Nam thì
chế biến như chiên, nướng, ăn tái, nấu lẩu, xào lăn, chạo dê, thịt dê hấp hoa
sen, thịt dê hầm hạt sen, chả dê... các món ăn cần uống thêm rượu ngọc dương
hay rượu tiết dê. Nhiều người ưa thích
Tái dê chấm với tương bần
Ăn vào nó cứ tần mần (bần
bần) như dê
Đêm về vợ lại tỉ tê
Hay:
Tái dê chấm với tương gừng
Ăn vào cứ thấy phừng phừng
như dê
Các
món ăn từ dê, đặc biệt tinh hoàn dê hay ngẩu pín dê (bộ phận sinh dục của dê đực)
ăn sẽ cường dương, bổ thận. Đến ngày nay chưa ai chứng minh trên cơ sở khoa
học. Cho rằng "ăn gì bổ ấy" cũng chỉ là sự suy luận của giới bình dân,
vì chưa có nghiên cứu hoặc tài liệu khoa học nào chứng minh được tính trợ dương
của thịt dê. Trong khi các nhà thuốc tây bán thuốc Viagra cho người bị bệnh yếu
sinh lý „liệt dương“ gia tăng.
Sữa dê có vị ngọt tính âm tác dụng bổ hư, bồi dưỡng cơ thể . Người ta
vắt sữa dê vào lúc trời sáng, khi dê con chưa ngủ dậy, bế dê con sang chỗ khác
vắt sữa dê mẹ. Các Siêu thị Ðức có bán sữa dê đắt hơn sữa bò, biến chế thơm
ngon không có mùi hôi. Hoàng Đế Tutankhamun là vị vua tại vương triều thứ 18
của Ai cập cổ đại (ông cai trị vương triều từ 1341- 1323 trước công nguyên,
trên 3000 năm cũng thích uống sữa dê. Phó mát (cheese) dê được sản xuầt nhiều
tại Âu Châu. Sữa dê ngoài dinh dưỡng, còn là nguyên liệu sản xuất mỹ phẩm. Thời
nữ hoàng Cleopatra, Võ Hậu, Từ Hi ..thường tắm bằng sữa dê
Người
nước Lỗ khi xưa phải mổ thịt dê đực làm lễ „Cốc sóc“. Về sau lễ ấy được bỏ đi
nhưng người ta vẫn theo lệ mà nộp dê. Tử Cống (học trò Khổng Tử tên là Ðoan Mộc
Tứ nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi) muốn bỏ hẳn lệ ấy đi, nhưng Khổng Tử (Kong Qui 551-479
tr.CN) bảo: “ Ngươi tiếc con dê còn ta thì tiếc cái lễ”. Ý muốn nói, triều vua
bây giờ đã suy, bỏ mất lễ „Cốc sóc“ nhưng vẫn giữ tục nộp dê thì người ta vẫn
nhớ đến lễ ấy và lễ Cốc sóc không mất hẳn. Câu chuyện này chứng tỏ dê có một
vai trò quan trọng như thế nào trong văn hóa Trung Hoa.
Dầu đến việc làm đình làm
thị
Cũng đến dê trảm thảo bồi
cơ
Nhẫn đến ngày mang tướng
xuất sư
Cũng lấy dê khấn cầu tổ
đạo
Lễ Cốc sóc thánh nhân còn
bảo
Tử Cống sao dê sống bỏ đi
(lục súc
tranh công)
Thi
sĩ Bùi Giáng (1926-†1998) cảm nỗi lòng Tô Vũ, và chính ông cũng một thời chán
đời về mua dê và chăn dê ở quê nhà, núi đồi Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong
khoảng từ (1945 đến 1952)
Ðồi tăm tắp chạy về ôm
chân núi
San sát đồi phủ phục quần
núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng
rộn ràng rối
Trời núi đồi ngây ngất
nhảy dê nhanh
Thôi từ nay tha hồ em mặc
sức
Nhảy múa tung sườn núi vút
dòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc
sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be...
Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Ðeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên.
Ông Tô Vũ, sứ giả nhà Hán thời
(Hán Vũ Đế vua thứ 6 nhà Hán 140-87 tr.CN). Tô
Vũ đi sứ sang Hung Nô. Triều đình Hung
Nô có lời dụ hàng, Nhưng Tô Vũ giữ thể diện nhà Hán, giận dữ quát mắng, chúa
Hung Nô là Thuyền Vũ sai quân áp tải ông đến giam vào hang sâu, với ý giết chết
sứ thần nhà Hán. nhưng Tô Vũ không chết trong hang. Thuyền Vũ liền truyền lệnh
đày ông lên phương bắc, vắng như sa mạc, tuyết phủ quanh năm. Ông phải chăn một
đàn dê đực, với sắc chỉ của chúa Hung Nô: “Bao giờ trong đàn dê, dê đực đẻ con,
sứ thần Tô Vũ được trở về đất Hán”.
Tháng ngày chăn dê Tô Vũ làm thơ
Giống nai sao lại tiếng
bê! hê!
Đứng lại mà coi vốn thiệt
dê
Đực, cái cũng râu không
biết hổ
Vợ chồng một mặt hết khen chê
Hán
Vũ Đế và cung đình nhà Hán biết tin sứ thần Tô Vũ bị hại, đã nêu tấm gương trung nghĩa với đất
nước và bị giam trong hang cho đến chết, nên vô cùng thương xót. Luôn nêu cao
công trạng và gương trung nghĩa cho đời. (Thời gian trôi qua Hán và Hung Nô
giảng hoà,Tô Vũ được tự do về nước).
Dê ăn trái Cafe đầu
tiên.
Vào thế kỷ thứ 9 ở làng Cafa bên Á Rập có người chăn dê, thấy dê ăn
loại trái cây làm cho dê bị kích thích, anh hái loại trái cây đó đem về anh ăn
thử, có vị đắng nhưng nướng thì có muì thơm, anh đặt tên là hạt Cafa hay còn
gọi là Cafe. Mãi cho đến thế kỷ thứ 17 Cafa được mang sang Âu Châu, nhưng người
ta sợ trái độc chưa dám sử dụng. Ngày nọ
vua Thụy Điển muốn thí nghiệm Cafa có độc tố không? ông sai lính nấu Cafa cho
ba người tội phạm sắp tử hình uống thử nhưng họ vẫn khoẻ. Café từ đó bắt đầu
phát triển khắp nơi
Những dược thảo mang
tên Dê/Dương
*Cà
Dái dê còn gọi cà tím tên khoa học / solanum melongena họ cà Solanaceae chưá
chất violanin.
*Dương
Ðề / Rumex wallichii họ rau Polygonaceae. trong rễ và lá chứa anthraglucosid.
*Dâm
Dương Hoắc/ Herba epimedii, thuộc họ Hoàng liên gai Berberidaceae, có tính chất
kích thích tình dục và được sử dụng làm thuốc.
*Cây
Sừng Dê/ Semen Strophanthididivaricati còn gọi là dương giác nữu, dương giác ảo
chưá các chất Glucosid.
*Dương
Ðề Thảo/ Emilia Sonchifolra họ cúc Compositae
*Dương
San Hô/ Euphorbia tithymaloides họ thầu dầu Euphorbiaceae
*Dương
Xuân Sa/ Amomun Villosum họ gừng Gingberaceae chứa saponin.
*Dương Ðào/ Averrhoacarambola.
*Cỏ râu dê / Filipendula-ulmaria. Hoa cỏ râu dê
phơi khô được dùng làm chất xông hương (potpourri) để trong nhà thờ, có mùi
thơm ngọt ngào nồng nàn làm sảng khoái tinh thần được mọi người ưa chuộng.
Các năm Mùi trong lịch sử chống giặc
Quý Mùi (503): Ngày 12/9/503 là ngày
sinh của Lý Bôn (? - †548), tức Lý Bí, quê ở Long Hưng. Tháng 1- 542, Lý Bí kêu
gọi dân chúng khởi nghĩa chồng công quân Lương. Thứ sử Tiên Tư khiếp sợ bỏ chạy
về nước. Tháng 2-544, Lý Bí xưng Lý Nam Đế. Niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên
nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Triều Tiền Lý khới nghiệp từ đấy.
Tân Mùi (791): Năm 766, Phùng Hưng (761-†802)
quê Sơn Tây cùng anh em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa chống lại
nhà Đường. Cuộc chiến đấu kéo dài 20 năm (766-789). Đến năm Tân Mùi (791),
Phùng Hưng cùng các tướng chiếm được thành Tống Bình (Hà Tây), được tôn hiệu là
Bố Cái Đại Vương.
Kỷ Mùi (1019): Năm sinh của Lý Thường
Kiệt (1019-†1105). Năm 1061, ông được cử vào trấn giữ vùng núi Thanh Nghệ hiểm
trở. Năm 1077, quân Tống đem 10 vạn quân, 1 vạn ngựa chiến, cùng 20 vạn dân phu
sang xâm lược nước ta. Quân giặc bị quân dân ta đánh chặn ngay từ cửa Ải Lạng Sơn.
Ngày 18/1/1077, quân Tống tiến đến bờ bắc sông Cầu và bị chặn lại hơn 2 tháng.
Đến đúng lúc giặc Tống bị dồn vào tính thế khốn quẫn tại sông Như Nguyệt (Bắc
Ninh), Lý Thường Kiệt ra lệnh quân dân Ðại việt tấn công, giặc Tống thua rút
quân về nước.
Đinh Mùi (1427): quân ta chém tướng Liễu
Thăng ở núi Mã Yên và hơn 1 vạn quân giặc. Tướng Vương Thông hết hy vọng vào
viện binh đã xin đầu hàng. Ngày 10/12/1927, Lê Lợi (1385-†1433) và Nguyễn Trãi
(1380-†1442) cho Vương Thông đến “Hội thề Đồng Quan” chúng xin hứa không bao
giờ xâm lược Đại Việt nữa.
Năm Ất Mùi (1595): Sau khi đánh bại quân
nhà Mạc, Trịnh Tùng (?-† 1623) khôi phục cố đô Thăng Long vào năm 1592. Năm Ất
Mùi (1595), Trịnh Tùng bắt đầu tổ chức bộ mày cai trị theo quy mô của bậc đế
Vương. Từ đấy bắt đầu thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh.
Kỷ Mùi (1859): Pháp đánh chiếm Gia Định,
Trương Định (1820-†1864) tổ chức khởi nghĩa chống giặc ở Gò Công, Tân An, đựơc
triều đình Huế giao chức lãnh binh.
Đinh Mùi (1907): Thành lập trường Đông
Kinh Nghĩa Thục tại phố Hàng Đào, do việc vận động của Phan Châu Trinh (1872-†1926)
với các nhà Nho tiến bộ. Ông Lương Văn Can(1854-†1927) làm Hiệu trưởng, giám
học là ông Nguyễn Quyền và một số nhà trí thức; học giả nổi tiếng
Ất Mùi (1955): Theo Hiệp định Geneve ký
ngày 20/7/1954, quy định ngày 24/4/1955, quân đội Pháp rút khỏi Quảng Ninh,
ngày 13/5/1955 rút khỏi Hải Phòng, cho đến ngày 16/5/1955. Các năm Mùi kế tiếp:
Ðinh Mùi (1967); Tân Mùi (1991) Quý Mùi (2003) Ất Mùi (2015).
Lịch sử đổi thay qua những năm Mùi, noi gương dựng
nước và giữ nước của tiền nhân để lại, dân tộc Việt Nam từng đánh đuổi ngoại xâm
ra khỏi đất nước giành lại độc lập, tự do. Ngày nay toàn dân phải có bổn phận
giữ gìn bờ cõi, biển đảo của Việt Nam, không thể để cho tập đoàn CSVN bán nước
vinh thân phì gia tự quyết định vận mệnh dân tộc.
Mỗi lần xuân về, chúng ta đón xuân trong niềm vui,
nhưng không quên mùa Xuân với chiến thắng Đống Đa năm Kỷ dậu 1789, là một trong
những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử, là mùa xuân đẹp
nhất trong lòng dân tộc Viêt Nam.
Nguyễn Quý Đại www.hoamunich.wordpress.com
Tài Liệu Tham Khảo
Wildes
Afrika (Bayerischer Rundfunk)
Tiere
(Dorling Kinderley)
Universal
Lexikon (Bassermann)
Welt
Geschichte Convertgarten
Hình
trên Internet
[1] Tương bần là đặc sản của
làng quê Bần Yên Nhân. Tương Bần hay Tương làng Bần, được sản xuất tại Thị trấn
Bần Yên Nhân, Mỹ Hào, Hưng Yên, Việt Nam.Là một trong những loại tương ngon, món
nước chấm độc đáo có hương vị riêng cho rau, cà, thịt, đậu làm món ăn tăng thêm
phần hấp dẫn. Ngoài ra, tương Bần còn là gia vị để kết hợp với nhiều món kho.