Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam
Benedict J. Tria Kerkvliet
Dịch từ: Benedict J. Tria Kerkvliet; Regime Critics: Democratization
Advocates in Vietnam, 1990s–2014; Critical Asian Studies 47:3; 2015.
Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam –
Kỳ 1: Đảng dẫn dắt
Học
giả Benedict J. Tria Kerkvliet, ĐHQG Australia, là người có nhiều năm nghiên cứu
về dân chủ hoá, thể chế và vấn đề đất đai ở Việt Nam. Ảnh: ANU.
Bài
viết dưới đây của học giả Benedict J. Tria Kerkvliet cho rằng có bốn cách tiếp
cận trong việc thúc đẩy dân chủ hóa ở Việt Nam. Cách thứ nhất nhấn mạnh vào vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS) trong việc chuyển đổi hệ thống chính trị
hiện tại sang hệ thống dân chủ. Cách tiếp cận thứ hai tập trung vào việc xây dựng
các tổ chức để đương đầu và xóa bỏ ĐCS, qua đó nhanh chóng thiết lập một hệ
thống dân chủ…
Cách
tiếp cận thứ ba sử dụng việc tham dự vào chính quyền ở mọi cấp để thúc đẩy tiến
bộ kinh tế xã hội, từ đó dẫn đến dân chủ hóa. Và cách tiếp cận cuối cùng
hướng đến việc dân chủ hóa thông qua mở rộng và tăng cường các tổ chức xã hội
dân sự. Một điểm cần nhấn mạnh trong cả bốn cách tiếp cận này là không cách nào
ủng hộ việc thay đổi hệ thống chính trị bằng bạo lực.
Cách tiếp cận “Đảng dẫn dắt”
Một
số nhà phê bình cho rằng ĐCS là nguyên nhân chính khiến cho Việt Nam tụt hậu.
Vì vậy, họ kêu gọi ĐCS phải tiến hành dân chủ hóa đất nước, theo họ thì cách
làm này sẽ giúp người Việt không phải phá bỏ tất cả các thiết chế hiện hành. Họ cho rằng Việt Nam vốn đã sở hữu một vài đặc điểm
mang tính dân chủ. Chẳng hạn, Hiến pháp đã ghi rõ rằng quyền lực thuộc về người
dân, và trong Hiến pháp cũng có các quy định về bầu cử cũng như bảo vệ các quyền
cơ bản của con người. Vấn đề chính ở đây là các yếu
tố dân chủ này không hoặc rất hiếm khi được thực thi trong thực tế. Ấy là do
ĐCS nắm quá nhiều quyền lực. Để giải quyết vấn đề, ĐCS có thể tiến hành dân chủ
hóa đất nước và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Trần Độ là nhân vật tiêu biểu ủng hộ cho quan điểm đó. Ông sinh năm 1924 ở Thái
Bình trong một gia đình công chức, trở thành thành viên của ĐCS vào năm 1940,
và sau đó tham gia lực lượng kháng chiến. Ông là sĩ quan trong trận Điện Biên
Phủ, nơi quân đội Việt Nam đã đánh bại quân Pháp vào năm 1954. Trong phần lớn
cuộc chiến chống Mỹ, ông chiến đấu trên nhiều chiến trường ở miền Nam. Sau đó
ông trở thành quan chức cao cấp trong chính quyền. Khi nghỉ hưu vào năm 1991,
ông đang là Phó Chủ tịch Quốc hội.
Lý do chính khiến
ông quyết định nghỉ hưu là sự vỡ mộng trước kiểu chính trị của đất nước. Ông
cho rằng tham nhũng là hậu quả của một hệ thống chính trị vốn “không có cơ chế ràng buộc và kiểm soát quyền
lực”. Và cái tình trạng tệ hại này lại bắt nguồn từ sự thống trị của ĐCS.
Theo ông, thời chiến, vai trò lãnh đạo của ĐCS chính là yếu tố quyết định trong
việc giành được độc lập khỏi Pháp năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975.
Nhưng kể từ đó trở đi, sự kiểm soát của ĐCS đối với đất nước đã trở thành một vấn
đề nghiêm trọng.
Theo Trần Độ, nền
kinh tế Việt Nam tuy khá nhỏ nhỏ bé so với nhiều nước ở châu Á, song đã được cải
thiện đáng kể từ những năm 1980. Và ông xem thành tựu này là cơ sở cho lập luận
về vai trò của ĐCS trong việc dân chủ hóa. Trong những năm 1980, ĐCS đã biết lắng
nghe người dân, khi dân đang bất mãn với việc nhà nước kiểm soát sản xuất và
phân phối. Bằng cách cho phép nền kinh tế thị trường, ĐCS đã giải phóng năng lượng
và sự sáng tạo đang bị kìm hãm của người dân. Trần Độ nhấn mạnh rằng các bước
tương tự – như ĐCS lắng nghe người dân, cho phép họ cất tiếng nói và tiến hành
đổi mới – cần phải được thực hiện để Việt Nam phát triển hơn nữa. Nếu không,
ĐCS sẽ tự làm suy yếu chính mình. Ông muốn hàm ý rằng, nếu không tiến
hành dân chủ hóa, thì rồi những bất ổn sẽ lớn tới mức một ngày nào đó
chúng sẽ khiến người dân phải xóa bỏ ĐCS.
Trần Ðộ đã thể
hiện những quan điểm này trong vô số bài báo và thư từ, thường được gửi cho các
quan chức cao cấp của Đảng (và lưu hành trên Internet) trong khoảng thời gian từ
năm 1995 cho đến khi ông qua đời vào tháng 8/2002. Năm 1998, ông khiến các quan
chức cấp cao cảm thấy khó chịu đến mức họ đã bàn cách để buộc ông phải im miệng.
Có lẽ danh tiếng rộng khắp của ông đã khiến cho chẳng có ai dám bắt bớ ông, dù
rằng ông và gia đình vẫn hay bị công an quấy rối thường xuyên. Vào đầu năm
1999, giới lãnh đạo ĐCS đã khai trừ ông ra khỏi Đảng.
Khoảng
một thập niên sau khi Trần Độ mất, các tác phẩm của ông hoặc viết về ông đã được
các nhà xuất bản chính thống ở Việt Nam in và phát hành. Ảnh: Hoàng Kim Phượng/Luật
Khoa.
Các quan điểm cùng với danh tiếng của Trần Độ đã khiến ông trở thành một
trong những nhà bất đồng chính kiến nổi bật nhất ở Việt Nam đương đại. Cho đến
ngày nay, ông vẫn được nhiều người ngưỡng mộ. Tuy nhiên, không giống như nhiều
nhà phê bình chế độ khác, ông cho rằng con đường hứa
hẹn nhất cho dân chủ hóa là thông qua chính ĐCS.
Quan điểm của ông có ba phần chính.
Thứ nhất, Việt Nam đã có nhiều đặc điểm dân chủ. Nếu
những đặc điểm này được tận dụng, chúng sẽ thúc đẩy tiến trình dân chủ hoá. Do
đó, nhiệm vụ trước mắt là thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế trong
cách thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, ĐCS là tổ chức có vị trí tốt nhất để lãnh đạo quá trình này. Nó
đã tạo ra một hệ thống dân chủ vào năm 1945-1946, tuy nhiên chiến tranh đã khiến
cho hệ thống này không được áp dụng. Nhiều thành viên ĐCS ủng hộ dân chủ hoá và
tin rằng Đảng phải chịu trách nhiệm cho những sai lầm của hệ thống chính trị.
Hơn nữa, ĐCS đã có truyền thống hướng tới thực hiện những điều tốt nhất cho người
dân. Các nhà lãnh đạo cần rút ra từ lịch sử của ĐCS các ý tưởng và sức mạnh để
“tự đổi mới chính mình” và qua đó thay đổi hệ thống chính trị.
Thứ ba, lãnh đạo ĐCS có thể bắt đầu tiến trình dân chủ hóa bằng cách
thực hiện các điều khoản về nhân quyền đã quy định trong Hiến pháp; tổ
chức các cuộc bầu cử với sự tham gia của nhiều đảng chính trị; loại bỏ các quy
định trong Hiến pháp về đặc quyền của ĐCS; tách ĐCS ra khỏi nhà nước; và tiến
hành dân chủ hoá thủ tục nội bộ của chính nó.
Một người có lập trường tương tự là Trần Huỳnh Duy Thức. Ông ít tuổi hơn Trần
Độ rất nhiều, và xuất thân từ một bối cảnh hoàn toàn khác.
Ông sinh năm 1966, mẹ ông là nông dân và cha là giáo
viên dạy tiếng Anh. Ông từng học tại Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh giữa những năm 1980. Đầu những năm 1990, ông và cộng sự đã xây dựng thành
công các công ty máy tính và viễn thông. Chính trong quá trình làm việc, ông đã nhận thấy mức độ tham nhũng
nghiêm trọng của chính quyền. Tự hỏi phải làm gì để chống tham nhũng,
ông và một vài người bạn đã đọc rất nhiều tài liệu khoa học xã hội, chủ yếu bằng
tiếng Anh.
Ông đi đến kết luận
rằng một hệ thống chính trị đa đảng không phải là biện pháp khắc phục điều này,
và
có nhiều quốc gia tuy đa đảng song vẫn tham nhũng. Ngoài ra, cái gọi là dân chủ
ở nhiều quốc gia là “chỉ là giả tạo”, chúng chỉ phục vụ cho một số ít người.
Vào cuối năm 2008, ông kết
luận rằng việc tạo ra một nền dân chủ thực sự sẽ không bắt đầu bằng việc đa đảng.
Thay vào đó, nền dân chủ xuất hiện theo thời gian thông qua cải thiện điều kiện
sống của người dân, khiến họ ý thức được các quyền của mình, cùng với đó là việc
chính quyền “quyết tâm xây dựng một nền dân chủ thực sự, đảm bảo các điều kiện
cho phép người dân làm chủ”.
Từ việc nghiên cứu cũng như từ kinh nghiệm kinh
doanh của mình, ông nói với chính quyền rằng việc giới hạn không gian của doanh
nghiệp tư nhân trong nước và tình trạng phụ thuộc vào nhà nước của các nhà đầu
tư nước ngoài chính là hai thực trạng đang đe dọa chủ quyền của Việt Nam. Trên
các blog và trong các kiến nghị gửi tới các cơ quan chức năng trong giai đoạn
2006-2010, cũng như trong bản tóm lược của một cuốn sách, Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng “nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam sẽ đi đến sụp đổ. Dẫu
nó cho phép mức độ tự do kinh tế cao hơn và nó cũng giúp cải thiện cuộc sống của
người dân, song nền kinh tế này đã chạm tới giới hạn.
Để phát triển hơn nữa, người dân cần
có sự tự do chính trị. Nếu không, ông cảnh báo, Việt Nam sẽ rơi
vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng, đến từ sự bất ổn và các giới hạn của nền
kinh tế, từ những kẻ cơ hội sẽ sử dụng quyền lực chính quyền cho các mục đích
tư lợi, và từ cái việc chính quyền lờ đi những người chỉ trích như ông – những
người vốn tìm cách cải thiện hệ thống chính trị chứ không hề có ý lật đổ nó. Một
nguyên nhân khác nữa là do sự khác biệt lớn giữa cái lý tưởng được ĐCS bảo vệ
và hứa hẹn trong Hiến pháp với cái thực tế tham nhũng tràn lan, bè phái và đàn
áp.
Trần
Huỳnh Duy Thức vốn là một doanh nhân thành đạt. Ảnh: Dân Luận.
Để tránh tai hoạ, Trần Huỳnh Duy Thức kêu gọi chính
quyền hãy nắm bắt cơ hội, theo cái cách mà nó đã làm trong những năm 1980 khi đẩy
lùi thảm họa quốc gia bằng cách bãi bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung.
Giờ đây, ông cho rằng lãnh đạo chính quyền nên áp dụng
nền kinh tế thị trường trong đó các doanh nghiệp Việt Nam được phát triển theo
hướng dẫn của nhà nước, dựa trên các lý tưởng dân chủ xã hội và “tiến hành việc chuyển giao quyền lực chính
trị cho người dân”. Có thể chuyển giao quyền lực cho người dân bằng cách
đưa trí thức vào trong chính phủ, những người không phải là thành viên ĐCS
nhưng có thể nâng cao năng lực của ĐCS trong việc đối phó với khủng hoảng.
Chính quyền cũng có thể kích hoạt các đặc điểm dân chủ đã có trong Hiến pháp của
Việt Nam, đặc biệt là các quy định về Quốc hội, bầu cử, các quyền tự do ngôn luận,
tự do hội họp, và tự do báo chí. Những điều này sẽ củng cố niềm tin để người
dân có thể thực hành quyền của họ, mở rộng xã hội dân sự, và thúc đẩy Việt Nam
trở thành một nền dân chủ mang những nét đặc trưng của riêng mình.
Nếu không có những biện pháp này, Trần Huỳnh Duy Thức
sợ rằng cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra. Lúc đó những kẻ cơ hội trong nước sẽ “hợp
tác với nước ngoài để bòn rút lợi ích quốc gia”. Hoặc người dân sẽ nổi dậy để
giành lấy quyền lực và các quyền vốn thuộc về họ. Ông lo lắng một cuộc nổi dậy
như vậy có thể làm bùng nổ sự thù hận dai dẳng giữa kẻ thắng và người thua
trong cuộc nội chiến đã qua, làm cho hoàn cảnh quốc gia trở nên tồi tệ hơn, và
biến nó trở thành cơ hội cho những kẻ tư lợi. Để tránh những hậu quả tai hại
đó, sự tức giận của người dân phải được chuyển sang nhắm tới các hành động mang
tính xây dựng. Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng các tổ chức đối lập ở Việt Nam hiện
nay quá non trẻ để có thể làm được điều đó.
Theo
ông, tuy ĐCS bị suy yếu nhưng vẫn giữ được cả khả năng lẫn trách nhiệm để hành
động một cách tích cực, nó vẫn là “lực lượng
duy nhất có thể tập trung sức mạnh của người dân”.
Vào tháng 5/2009, một tháng sau khi ông và Lê Công Định
– một nhà bất đồng chính kiến khác – gặp nhau ở Thái Lan cùng với một người Mỹ
gốc Việt chống đối chính quyền Việt Nam, chính quyền đã bắt giam ông. Tới tháng
6, họ cũng bắt Lê Công Định cùng với hai người khác. Tháng 1/2010, cả bốn người
đều bị buộc tội âm mưu lật đổ chính quyền. Tuy không được phép tự bảo vệ mình
trước tòa án, Trần Huỳnh Duy Thức đã kháng cáo, cố gắng chứng minh sự vô tội của
mình. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm vẫn giữ nguyên bản án 16 năm tù giam dành cho
ông, lâu hơn bản án dành cho ba người còn lại.
Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam
– Kỳ 2: Đối đầu
Luật
sư Nguyễn Văn Đài được coi là người tích cực cổ xuý cho một hệ thống chính trị
đa đảng phái tại Việt Nam. Ảnh: Đất Việt.
Nhóm ủng hộ đường lối này hướng tới kiểu
đối đầu trực tiếp với chế độ, với ý nghĩ rằng ĐCS sẽ không bao giờ tiến hành
dân chủ hóa đất nước. Họ cho rằng một khi không có các thiết
chế dân chủ – đặc biệt là bầu cử đa đảng và bảo vệ các quyền con người cơ bản –
thì Việt Nam sẽ không thể phát triển được về kinh tế, giáo dục, văn hoá, và
chính trị để bắt kịp các nước khác trong cùng khu vực.
Theo họ, cách mạng bạo lực là điều
không khả thi cho Việt Nam. Vậy nên, cách
duy nhất để tiến hành dân chủ hóa chính là công khai thúc đẩy một hệ thống đa đảng.
Điều này đòi hỏi các tổ chức xã hội, bao gồm các đảng chính trị, phải trực tiếp
thách thức ĐCS. Các tổ chức này cũng sẽ giúp cho
phong trào dân chủ hóa được liền mạch và bền vững khi chính quyền bắt giữ và
ngăn cản các nhà hoạt động. Một câu hỏi thường xuyên được tranh luận
trong giới bất đồng chính kiến là, liệu có nên để các tổ chức hoạt động một
cách riêng rẽ, hay là nên hợp nhất chúng lại.
Vấn đề nữa là về vai trò của của người nước ngoài và
người Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều người theo đường lối đối đầu cho rằng những
“người nước ngoài” này đóng một vai trò hết sức quan trọng. Thậm chí còn có ý
tưởng rằng những người dẫn dắt cách tiếp cận đối đầu nên lánh ra nước ngoài, đợi
đến khi phong trào dân chủ hóa ở trong nước mạnh lên. Trong khi đó, một số lại
lập luận rằng phong trào phải dựa vào nguồn lực và sự lãnh đạo ở trong nước.
Nhà hoạt động Đỗ Nam Hải
“Tuyên bố về Tự do và Dân chủ” là một
trường hợp nổi bật của cách tiếp cận đối đầu. Tài liệu này được
thảo ra vào tháng 4 năm 2006, yêu cầu một hệ thống
chính trị đa nguyên, cùng với các quyền tự do báo chí, hiệp hội, tôn giáo, và
các quyền con người khác. Nó cũng đòi hỏi phải chấm dứt sự cai trị của ĐCS. Bản
tuyên bố này cho rằng hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay “không có khả năng đổi
mới hay sửa chữa” và phải được “thay thế hoàn toàn”.
Một trong những tác giả chính của bản Tuyên bố là Đỗ Nam Hải. Ông sinh năm 1959, bố mẹ
ông là thành viên của ĐCS và cũng là cựu chiến binh trong các cuộc chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Khi còn trẻ, ông theo học tại các trường đại học ở Việt Nam,
và sau đó chuyển sang học ở Úc. Tại đây, vào đầu những năm 2000, ông bắt đầu
đăng lên Internet những bài phê phán hệ thống độc đảng của Việt Nam. Đến khi trở
về Việt Nam vào năm 2002, ông vẫn tiếp tục giữ vững quan điểm chính trị của
mình. Chính điều này đã khiến ông bị mất việc khi đang làm cho một ngân hàng
trong nước.
Ông
Đỗ Nam Hải (phải) có thể được coi là một trong những đại diện của xu hướng đối
đầu. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Lúc còn ở Úc, ông viết rằng
sự cạnh tranh là một lợi thế không thể chối cãi của hệ thống chính trị đa đảng
so với hệ thống độc đảng. Khi có nhiều đảng, các đảng đều phải tìm hiểu
mong muốn của người dân, để có thể cạnh tranh với nhau trong cuộc bầu cử. Theo
ông, chính trị cũng giống như việc kinh doanh. Nếu chỉ có duy nhất một công ty
cung cấp một dịch vụ thì theo thời gian công ty sẽ dần chẳng còn quan tâm tới
khách hàng nữa. Tuy nhiên, nếu có hai hay nhiều công ty cạnh tranh, thì khách
hàng sẽ được hưởng lợi. Điều này cũng đúng đối với chính trị.
Đỗ Nam Hải cho rằng, chính cái kiểu cai trị độc đảng
đã tạo ra một chính phủ tồi tệ: Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất
trên thế giới, tham nhũng tràn lan, và phải đối mặt với những thách thức nghiêm
trọng.
Cuối năm 2004, Đỗ
Nam Hải viết rằng hệ thống độc đảng “đã, đang, và sẽ là vấn đề của tất cả các vấn
đề, là lý do của tất cả các lý do cho nhiều thảm hoạ đau đớn và tình trạng tụt
hậu đáng xấu hổ của đất nước”. Tuy thay thế nó bằng một hệ thống
chính trị đa đảng cũng không giải quyết tất cả những khó khăn, nhưng cần phải
làm như vậy để bắt đầu giải quyết các vấn đề ấy. Và ông cho rằng, “hệ thống độc tài, độc đảng hiện nay sẽ không
bao giờ có thể xây dựng một Việt Nam với dân giàu, nước mạnh, hay là xã hội
công bằng, dân chủ, và văn minh” (2008).
Theo ông, để thay đổi hệ thống thì người dân trên cả nước – đặc biệt là các nhà trí thức –
phải hợp sức gia tăng áp lực (một cách bất bạo động) nhằm buộc ĐCS phải từ bỏ
quyền lực. Đề xuất này của ông tương tự với các cuộc biểu tình quần
chúng đã làm sụp đổ các chế độ độc tài trong những thập kỷ gần đây ở Ba Lan, Tiệp
Khắc, Hungary, Đông Đức, Phi Luật Tân và Nam Dương.
Khác với Trần Độ và Trần Huỳnh Duy Thức, dường như
ông không cho rằng sự phẫn nộ của công chúng sẽ vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Đỗ
Nam Hải cũng không thúc giục chính quyền chủ động dân chủ hóa. Ông cho điều này
là vô ích, ĐCS phải rời bỏ quyền lực bởi áp lực của chính những người dân.
Đỗ Nam Hải hoạt động tích cực trong các nhóm ủng hộ
dân chủ, đặc biệt là Khối 8406. Ông
là một trong những người sáng lập Khối này vào tháng 4 năm 2006, và thường là
người phát ngôn của Khối.
Cùng với các tổ chức khác, Khối 8406
hướng đến việc gây áp lực và buộc các nhà lãnh đạo của ĐCS phải từ bỏ quyền lực.
Khối đã có nhiều hành động để tạo áp lực, như tẩy chay các cuộc bầu cử cho đến
khi chính quyền cho phép ứng cử viên của đảng khác tham gia chạy đua, cổ vũ các
cuộc biểu tình chống chế độ, ủng hộ các cuộc bầu cử đa đảng, chống lại hành động
khai thác bauxite của các công ty Trung Quốc, và kêu gọi những người ủng hộ dân
chủ mặc áo trắng vào ngày đầu tiên và ngày mười lăm hàng tháng.
Trừ chiến dịch phản đối khai thác bauxite, các biện
pháp còn lại ít được người Việt Nam hưởng ứng. Tuy nhiên, Đỗ Nam Hải và những
thành viên của Khối đã chứng kiến bước tiến lớn của phong trào dân chủ hóa tại
Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2013. Họ cảm thấy vui mừng khi người dân Việt
Nam ít e ngại hơn khi chỉ trích chế độ và tham gia tích cực vào các tổ chức ủng
hộ dân chủ.
Để buộc Đỗ Nam Hải im lặng, chính quyền đã làm gần
như tất cả mọi thứ, trừ việc bỏ tù ông. Họ thường đột nhập vào nhà riêng để thẩm
vấn ông và quấy rối gia đình ông. Tháng 3 năm 2007, cảnh sát an ninh đã dọa bắt
ông nếu ông tiếp tục làm việc với Khối 8406 và các nhà hoạt động khác. Họ cũng
đã thuyết phục cha ông, một thành viên ĐCS lớn tuổi, và những người họ hàng của
ông nhằm khuyên ông dừng lại. Ông đã làm theo lời khuyên của gia đình, nhưng chỉ
trong một thời gian ngắn.
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Một nhà bất đồng chính kiến khác cũng dùng cách tiếp
cận đối đầu là luật sư Nguyễn Văn Đài. Trong giai đoạn 2006-2007, luật sư Đài
tham gia vào Khối 8406, tạp chí Tiếng nói Tự do, và các tổ chức ủng hộ dân chủ
khác.
Ông sinh năm 1969, lớn lên tại Hưng Yên, và là con
trai của một đảng viên ĐCS. Ông từng làm việc tại Đông Đức cho đến khi chế độ ở
đó sụp đổ vào năm 1989. Sau khi trở về Hà Nội, ông học luật, tốt nghiệp năm
1995 và tự thành lập văn phòng luật của riêng mình vào năm 2003.
Trong khoảng thời gian đó, ông đã ứng cử vào Quốc hội
với tư cách ứng viên độc lập song không thành công.
Luật
sư Nguyễn Văn Đài được Liên đoàn Thẩm phán Đức trao giải Nhân quyền năm 2017.
Tuy nhiên, ông vắng mặt do đang bị tạm giam. Người nhận thay ông là ông Vũ Quốc
Dụng (phải). Ảnh: Ba Sàm.
Với vị thế luật sư của mình, ông đã bảo vệ những
khách hàng bị bức hại vì niềm tin tôn giáo (như Mục sư Nguyễn Hồng Quang và nhà
truyền đạo Phạm Ngọc Thạch), và về sau ông đã trở thành một tín đồ của đạo Tin
Lành.
Năm 2004, ông tham gia vào tổ chức Vì Công Lý, đây
là một nhóm luật sư cung cấp dịch vụ bào chữa miễn phí cho người dân. Đoàn luật
sư Hà Nội và chính phủ đã nhanh chóng trấn áp nhóm này. Nguyễn Văn Đài vẫn tiếp
tục công việc đại diện cho các khách hàng gặp rắc rối pháp lý vì niềm tin tôn
giáo và chính trị của họ.
Vào năm 2006, Nguyễn
Văn Đài lên tiếng rằng phong trào dân chủ hóa
đòi hỏi phải có các đảng phái chính trị để thách thức các chính sách và sự thống
trị của ĐCS. Ông viết, người Việt Nam có đủ kiến thức và khả năng để
tham gia vào một hệ thống chính trị đa đảng. Việt Nam đã có một vài đảng chính
trị trong phong trào độc lập dân tộc từ thời thập niên 1930, rồi trong những
năm đầu giành được độc lập từ Pháp (1945-1946) và ở miền Nam Việt Nam những năm
1960-1975. Ngoài ra, theo cách giải thích của ông dựa trên Hiến pháp, thì việc
thành lập các đảng chính trị được Hiến pháp cho phép.
Chính quyền Việt Nam tuyên bố rằng các quan điểm và
hành động của ông đã vi phạm luật cấm tuyên truyền chống nhà nước. Lấy lý do
này, vào năm 2007 chính quyền đã bắt và kết án ông với mức án năm năm tù. Bản
án này sau đó được giảm xuống còn bốn năm, và ông đã được thả vào năm 2011.
Ngay sau đó, ông tiếp tục các hoạt động của mình. Cuối
năm 2011, ông kêu gọi rằng cần phải tạo ra một áp lực
thật lớn lên ĐCS. Rằng cần có “hàng ngàn, hàng chục ngàn người dũng cảm,
dám đứng lên và đấu tranh cho dân chủ.”
Vì thế, theo ông, “chúng ta cần phải tạo ra một phong trào thống
nhất”. Mỗi một trong mười tổ chức xã hội dân sự phải đào tạo và giáo
dục năm thành viên nhiệt huyết trong một tháng. Sau đó, cứ một trong năm mươi
thành viên mới được đào tạo này sẽ tiếp tục đào tạo thêm năm người, kết quả là
sang tháng thứ hai sẽ có thêm 250 công dân đầy nhiệt huyết. Và mỗi một người
trong số này lại đào tạo thêm năm người, cứ thế tiếp tục trong những tháng tiếp
theo. Sau một năm, hàng ngàn người trên khắp đất nước
sẽ là những người được chuẩn bị để “cất
lên tiếng nói cùng nhau, để xuống đường và hành động khiến cho chính quyền phải
lắng nghe. Nếu chính quyền
không làm vậy, thì một cuộc cách mạng đường phố có thể xuất hiện, giống như những
gì đã xảy ra ở Bắc Phi, Trung Đông và nhiều nơi khác”.
Cập
nhật của người dịch: Vào năm 2015, luật sư Nguyễn Văn Đài một lần nữa bị khởi tố
và bắt giữ cũng với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước”, cùng với cộng sự là
Lê Thu Hà. Cho đến nay (8/5/2017), sau ba lần gia hạn lệnh tạm giam, chính quyền
Việt Nam vẫn không công bố kết luận điều tra.
Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam
– Kỳ 3: Tham dự
Tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ (phải), trong một giai đoạn nhất định, được coi là một đại diện
của cách tiếp cận tham gia chính quyền. Ông có mối quan hệ gần gũi với lãnh đạo
cấp cao, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh: Boxitvn.
Thay vì đối đầu một cách có tổ chức, một số
người nổi tiếng trong giới bất đồng chính kiến đã ủng hộ việc tái tạo lại hệ thống bằng cách tích cực tham gia vào nó.
Họ cho rằng, nhiệm vụ cấp
bách không phải là xoá bỏ Đảng Cộng Sản (ĐCS) hay tạo ra một hệ thống chính trị
đa đảng mà đúng hơn là phải ngăn chặn các chính sách, hành động làm tổn hại đến
người dân và sự phát triển.
Theo họ, dân chủ hóa đi cùng với sự cải
thiện cuộc sống của người dân. Nó xuất hiện khi đất nước tiến bộ
về kinh tế và xã hội. Như một nhà bất đồng chính kiến ủng hộ cách tiếp cận tham
dự từng viết, dân chủ “không tự tồn tại,
mà gắn liền với các mục tiêu quan trọng khác” như bình đẳng, tự do và phát
triển kinh tế xã hội. Hệ thống đa đảng chưa hẳn đã đảm bảo được những điều này,
đây cũng là quan điểm mà cách tiếp cận đảng dẫn dắt ủng hộ.
Cách
tiếp cận tham dự
Những
người chủ trương tiếp cận tham dự ủng hộ việc tương tác và tranh luận với chính
quyền và ĐCS ở mọi cấp.
Họ phản đối các chương trình và các quan chức gây hại cho đất nước, và họ ủng hộ
các chính sách và những vị quan chức nào tốt.
Theo
nhóm này, việc tham dự sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của Việt Nam và dần dần
góp phần vào việc dân chủ hóa.
Thật
vậy, không cần phải “chính trị hóa hay giương ngọn cờ dân chủ” trong cuộc đấu
tranh cho sinh kế và thịnh vượng của người dân, vì làm như thế chính quyền có
khuynh hướng trở nên đàn áp hơn thay vì có trách nhiệm.
Vì lý do này, và cũng vì một số nhà bất đồng chính
kiến ngờ rằng một số tổ chức nhất định (đặc biệt là Khối 8406) bị chi phối bởi
các nhóm lợi ích bên ngoài đất nước, nên những người theo cách tiếp cận tham dự
thường có ý tránh liên quan đến các tổ chức, các cuộc biểu tình và tránh cả những
lời kêu gọi chống lại chính quyền.
Những nhà bất đồng chính kiến này khẳng định, cuộc đấu
tranh cho điều kiện sống tốt hơn đã bắt đầu thể hiện được sức ảnh hưởng. Họ
nói, ĐCS đã phải tán thành việc giao đất cho người dân trong những năm 1980 do
nỗi bất mãn của người nông dân đối với nông nghiệp tập thể, dẫu họ không hề có
tổ chức. Sự bất bình lan rộng đối với tình trạng đói nghèo cũng đã buộc ĐCS phải
thay thế nền kinh tế tập trung bằng một nền kinh tế thị trường. “Chủ nghĩa cộng
sản” và “chủ nghĩa xã hội” hiện nay không còn ý nghĩa gì đối với hầu hết người
Việt Nam, và đây chính là thực tế khiến ĐCS phải thay đổi.
Nhà bất đồng chính kiến Lê Hồng Hà
Lê
Hồng Hà là một nhân vật nổi tiếng
ủng hộ mạnh mẽ cho cách tiếp cận tham dự này. Ông từng tham gia phong
trào chống Pháp vào năm 1939 khi mới 13 tuổi, và là thành viên của ĐCS từ năm
1946 đến năm 1995.
Về sau, ông trở thành Chánh văn phòng Bộ Công an rồi
công tác ở Bộ Lao động cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1991 (ND).
Vài năm sau khi nghỉ hưu, Lê Hồng Hà và một thành
viên ĐCS khác đã nghiên cứu và kết luận rằng hàng trăm người đã bị thanh lọc một
cách sai trái khỏi đảng trong những năm 1960. Các nhà lãnh đạo ĐCS bác bỏ cáo
buộc này và khai trừ cả hai người ra khỏi đảng. Cuối năm 1995, tòa án kết án Lê
Hồng Hà hai năm tù giam vì tội tiết lộ bí mật nhà nước, song ông cực lực phủ nhận
tội danh này.
Ông
Lê Hồng Hà năm 2009. Ảnh: Lương Châu Phước/diendan.org.
Sau khi bị tù đày, ông đã đặt câu hỏi về sự thống trị
của ĐCS Việt Nam, từ đó ông bắt đầu tìm cách thay đổi hệ thống. Ông thấy rằng
những tiến bộ về mặt kinh tế và ý thức hệ của hệ thống phần lớn là do nỗ lực của
người dân trong việc tự cải thiện cuộc sống cho chính mình. Vào năm 2007, Lê Hồng
Hà viết rằng “trong 30 năm qua, người dân
đã đánh bại Đảng Cộng sản trên các mặt trận kinh tế và ý thức hệ, mặc dù vẫn
chưa chiến thắng về chính trị”.
Theo ông, chế độ độc đảng của Việt Nam
không bền vững và có khả năng “tự tan rã” vì nó “chống lại sự phát triển”. Hơn
nữa, chế độ này đang bị điều hành bởi các quan chức “tham nhũng và suy đồi”, do
đó “nó đã mất hết niềm tin” trong mắt nhân dân. Khi chế độ cứ tiếp
tục tự hủy như thế, còn người dân vẫn luôn thúc đẩy sự tiến bộ, thì chắc hẳn chế
độ sẽ tự sụp đổ “dần dần, từng bước một”.
Lê Hồng Hà đã kêu gọi những người ủng hộ dân chủ đi
theo cách tiếp cận này, thay vì tìm cách phá hủy hệ thống bằng một cuộc cách mạng.
Nhiệm vụ cụ thể mà ông đề xuất là tách Quốc hội và hệ thống tư pháp ra khỏi
ĐCS; tạo ra luật lệ để bảo vệ các hiệp hội và nền báo chí tự do; và làm cho cảnh
sát và quân đội bảo vệ quốc gia và người dân chứ không phải bảo vệ ĐCS.
Chuyên gia luật Cù Huy Hà Vũ
Cù
Huy Hà Vũ sinh năm 1957, là một chuyên gia luật ở Hà Nội. Tuy
ông không công khai ủng hộ cách tiếp cận tham dự, nhưng kiểu hành động của ông
cho thấy ông đồng tình với phương pháp này. Cũng giống như những người ủng hộ
phương pháp tham dự, ông tránh tham gia vào các tổ
chức có mục tiêu loại bỏ ĐCS. Cách đấu tranh của ông là cố gắng thay đổi hành
vi của các quan chức và hệ thống bằng cách sử dụng chính luật pháp hiện hành.
Cù Huy Hà Vũ có bằng tiến sĩ luật tại Đại học
Sorbonne ở Pháp, nơi ông nghiên cứu và làm việc trong nhiều năm. Trước đó, ông
tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và làm việc tại Bộ Ngoại giao. Mẹ ông là y
tá, cha là một nhà thơ nổi tiếng, từng giữ nhiều vị trí của chính phủ, bao gồm
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp. Sau khi trở về Hà Nội, Cù Huy Hà Vũ và vợ – bà
Nguyễn Thị Dương Hà, một thành viên của đoàn luật sư – đã thành lập một công ty
luật.
Xuất
thân từ một gia đình cán bộ cách mạng cao cấp, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ bị bỏ tù vì
hoạt động đấu tranh dân chủ và sau đó phải sống lưu vong ở Mỹ. Ảnh: Victims of
Communism Memorial Foundation.
Cù
Huy Hà Vũ can dự vào nền chính trị
Việt Nam bằng cách cố gắng bảo vệ người dân khỏi các hành động phi pháp của
chính quyền, và buộc chính quyền phải chịu trách nhiệm. Ví dụ, vào năm
2005, ông đã kiện Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, khi cho rằng việc Uỷ ban
chấp nhận kế hoạch xây dựng một khu nghỉ mát trong một khu di tích là hành động
vi phạm luật bảo vệ di sản. Tuy đây chỉ là một dự án gây tranh cãi ở cấp địa
phương, song nhờ những nỗ lực kiện tụng của Cù Huy Hà Vũ mà nó đã thu hút được
sự chú ý trên cả nước. Theo báo chí trong nước, vụ kiện này là một sự kiện mới
lạ.
Trong khoảng thời gian 2008-2010, Cù Huy Hà Vũ đã đứng
ra bảo vệ đại tá Dương Tiến và một số người khác, khi họ bị kết án tù vì tội
“xúc phạm nhà nước”, trong vụ này Dương Tiến cũng bị sa thải và bị trục xuất khỏi
ĐCS. Tuy nhiên, theo Cù Huy Hà Vũ, thì những người này không có tội. Họ chỉ là
nạn nhân bị chính quyền Đà Nẵng trả thù, sau khi họ công bố các báo cáo chi tiết
về tội tham nhũng của các vị lãnh đạo thành phố.
Vào năm 2007, Cù Huy Hà Vũ tham gia ứng
cử trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, với tư cách là một ứng
viên độc lập – một điều vô cùng hiếm thấy trong các cuộc bầu cử của Việt Nam.
Tuy nhiên, ông chỉ nhận được một phần ba số phiếu cần thiết.
Ông cũng đã hai lần đệ đơn kiện Thủ tướng,
một điều mà chưa có ai từng làm. Lần đầu tiên là vào tháng 6 năm 2009, khi ông
cho rằng thủ tướng đã vi phạm pháp luật khi cho phép các công ty Trung cộng
khai thác và chế biến bô-xít tại Việt Nam. Cả Toà án Nhân dân Hà Nội lẫn Toà án
Tối cao đều bác đơn kiện với tuyên bố rằng toà án không có thẩm quyền phán quyết
thủ tướng. Kết quả tương tự đã diễn ra khi ông cố gắng kiện Thủ tướng lần thứ
hai vào tháng 10 năm 2010, khi Thủ tướng ban hành nghị định ngăn cấm công dân
khiếu nại tập thể.
Sau vụ kiện thứ hai này, cảnh sát đã bắt Cù Huy Hà
Vũ và đột nhập vào nhà và văn phòng của ông. Họ tịch thu tài liệu của ông và buộc
tội ông với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước.
Vào tháng 4 năm 2011, ông bị Tòa kết án 7 năm tù
giam. Nhờ danh tiếng gia đình, cùng với sự kêu gọi mạnh mẽ của vợ và người
thân, và nhờ những cuộc biểu tình phản đối việc bắt giữ đã khiến cho vụ án của
ông nhận được sự chú ý cả trong nước lẫn quốc tế. Các cuộc tuyệt thực của ông
trong tù cũng được giới báo chí đưa tin rộng rãi.
Tháng 4 năm 2014, chính quyền thả ông “tạm thời”,
theo họ là “vì ông bị ốm yếu”. Nhưng chính quyền buộc ông phải rời khỏi Việt
Nam. Họ đưa ông từ nhà tù tới sân bay Hà Nội, và bắt ông và vợ lên máy bay qua
Mỹ. Ở đó ông vẫn tiếp tục chỉ trích các hành động và chính sách của chính quyền
Việt Nam.
Bốn cách tiếp cận dân chủ hóa ở Việt Nam – Kỳ 4: Xã hội dân sự
Bài viết kỳ này giới thiệu đến bạn đọc phương pháp
cuối cùng trong bốn tiếp cận dân chủ hóa tại Việt Nam: cách tiếp cận xã hội dân
sự.
Cũng giống như phương pháp tham dự, những người ủng hộ xã hội dân sự đề cao việc phê phán các
chính sách và viên chức xấu thông qua các thiết chế hợp pháp. Hai cách
tiếp cận này tương đồng ở ý tưởng rằng dân chủ không đơn thuần đòi hỏi một hệ
thống bầu cử đa đảng – tức đường lối đấu tranh của những người chọn phương pháp đối
đầu. Không giống như cách tiếp cận Đảng dẫn dắt, cả hai cách tiếp cận tham dự lẫn xã
hội dân sự đều không coi Đảng Cộng Sản (ĐCS) là lực lượng lãnh đạo quá
trình dân chủ hóa, mà họ coi Đảng chỉ như một trong nhiều tác nhân của
quá trình.
Cách tiếp cận xã hội dân sự
Tuy nhiên, việc
tham dự vào các thiết chế chính quyền không phải là mấu chốt của cách tiếp cận
xã hội dân sự. Trọng tâm của phương pháp
này là xây dựng môi trường để người dân có thể thảo luận và giải quyết các vấn
đề chính trị. Bằng cách tạo ra các tổ chức, mọi người có thể hỗ trợ lẫn nhau và
thúc đẩy xã hội dân sự – một thiết chế vô cùng cần thiết cho tiến trình dân chủ
hóa.
Theo cách hiểu của nhiều nhà bất đồng chính kiến, xã
hội dân sự là các hoạt động có tổ chức nằm bên ngoài khuôn khổ của chính quyền,
gia đình và kinh doanh. Các hoạt động như vậy không nhất thiết mang tính chính
trị, nhưng phải được tách biệt với nhà nước, vì vậy chúng giúp cho môi trường
chính trị trở nên phong phú hơn.
Xã hội dân sự đóng vai trò quan trọng
vào việc dân chủ hóa. Những người ủng hộ cách tiếp cận xã hội
dân sự cho rằng dân chủ không tự xuất hiện, chính
người dân cần phải đấu tranh cho nó theo một cách hòa bình mà không làm ảnh hưởng
đến xã hội và nền kinh tế. Cuộc đấu tranh đó
đến từ các tổ chức xã hội dân sự, mỗi tổ chức theo đuổi mục đích riêng của
họ và các tổ chức này sẽ tương tác với nhau vì một lợi ích chung.
Những người ủng hộ cách tiếp cận xã hội dân sự cho rằng,
dân chủ đòi hỏi người dân biết cách nói lên tiếng nói của mình, song cũng biết
lắng nghe, đối thoại và thỏa hiệp với người khác. Bằng cách tham gia vào các tổ
chức xã hội dân sự, người dân sẽ được thực hành các hoạt động này. Các công dân
trong một nền dân chủ cũng cần hiểu biết đầy đủ về các lợi ích của họ, về các mối
quan tâm của người khác và về các vấn đề quốc gia. Chính vì vậy, người dân cần
phải được tiếp cận với đa dạng các nguồn tri thức.
Nhà hoạt động xã hội Nguyễn Quang A
Nguyễn
Quang A, người chủ trương cách tiếp cận xã hội dân sự, cho
rằng mục tiêu chính là phải làm cho Việt Nam trở thành “một dân tộc giàu có, một
quốc gia mạnh mẽ, một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Theo ông, trở thành một nền dân chủ không có nghĩa là phải
bắt đầu bằng một hệ thống chính trị đa đảng, thậm chí điều này có nhiều khả
năng gây ra hỗn loạn cho Việt Nam, nhất là trong tình hình như hiện nay.
Ông nói, chủ nghĩa đa nguyên chính trị “có mục đích
tự thân, là kết quả của một quá trình [dân chủ hóa]”. Quá trình đó bao gồm việc
phát triển một nền văn hoá chính trị mà tại đó người dân biết cách tranh luận,
tôn trọng quan điểm của người khác và biết cách tìm kiếm thông tin. Nó đòi hỏi
“người dân hiểu rõ các quyền của họ, biết
cách sử dụng các quyền này, và liên tục gây áp lực lên chính quyền để cải thiện
môi trường khiến cho các quyền của họ có thể được thực hiện một cách hiệu quả”.
Để có thể sống một cách dân chủ, Việt
Nam cần thời gian và sự thực hành, và vì vậy “các tổ chức xã hội dân sự đóng một vai trò rất lớn”. Theo
ông, điều quan trọng không kém chính là sự tự do báo chí và thông tin minh bạch.
Bắt đầu từ năm 2006, nếu không muốn nói là sớm hơn, Nguyễn Quang A đã công khai ủng hộ dân chủ hoá hệ thống chính trị của Việt
Nam, một quá trình mà chính ĐCS sẽ tham gia nếu nó đủ khôn ngoan và muốn phục vụ
đất nước. Quan điểm này của ông xuất phát từ nhiều kinh nghiệm riêng của
bản thân trong suốt quá trình hoạt động.
Tiến
sĩ Nguyễn Quang A, vốn là một doanh nhân, trở thành một trong những người tích
cực nhất trong cộng đồng các tổ chức xã hội dân sự có đăng ký lẫn không có đăng
ký ở Việt Nam. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Nguyễn Quang A sinh ra ở miền Bắc Việt Nam vào năm
1946, năm bắt đầu cuộc chiến chống thực dân Pháp. Cha ông đã hy sinh trong cuộc
chiến này.
Năm 1965, chính phủ cử ông đi du học tại Hungary, tại
đây ông nhận bằng tiến sĩ về khoa học thông tin vào năm 1975. Sau khi trở về Việt
Nam vào năm 1976, ông gia nhập quân đội. Năm 1983 ông trở lại Hungary, trở
thành một nhà nghiên cứu khoa học và một giáo sư.
Về lại Việt Nam vào năm 1987, ông rời quân đội, làm
việc cho chính phủ trong một thời gian ngắn, rồi chuyển từ Hà Nội vào Sài Gòn,
bắt đầu kinh doanh gia công phần mềm. Năm 1989, ông cùng với những người khác
xây dựng một trong những công ty thiết bị máy tính đầu tiên của đất nước, và
vào năm 1993, ông cùng một nhóm doanh nhân thành lập một ngân hàng tại Hà Nội,
đây là một trong những ngân hàng tư nhân đầu tiên ở Việt Nam sau năm 1975.
Ngoài kinh nghiệm kinh doanh, nghiên cứu, quân sự và
làm việc trong chính phủ, ông cũng là một đảng viên ĐCS (1978-1993). Ông đọc rất
nhiều sách, bao gồm cả sách tiếng Hungary lẫn tiếng Anh về kinh tế và khoa học
chính trị, ông còn dịch một số cuốn sang tiếng Việt.
Dự án lớn đầu tiên của ông nhằm thúc đẩy xã hội dân
sự là Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS).
Được thành lập vào tháng 9 năm 2007, IDS cho rằng trí
thức phải đóng góp các phản biện công khai về chính sách. Nhiệm vụ của họ
là nghiên cứu, thảo luận và công bố các khuyến nghị về kinh tế, giáo dục, y tế,
phát triển nông thôn và các chủ đề khác.
Nguyễn Quang A giữ vai trò lãnh đạo Viện. Theo ông,
Viện chính là cơ quan nghiên cứu chính sách độc lập đầu tiên ở Việt Nam. Được
quản lý bởi một hội đồng gồm các học giả nổi tiếng, IDS thường tổ chức các hội
thảo công khai, tại đó các chuyên gia trình bày các bài báo đã được thảo luận
và đăng trên trang web của mình.
Những hoạt động này thường hướng tới chỉ trích các
chính sách của chính phủ. Đầu năm 2009, một số quan chức cáo buộc IDS chống đối
nhà nước; và vào tháng 7, Thủ tướng đã cấm các nhà nghiên cứu không được công
khai các tài liệu làm mất uy tín “sự chỉ đạo, tư tưởng, hay chính sách của Đảng
và Nhà nước”. Theo lệnh cấm này, các chuyên gia chỉ được phép gửi các ý kiến phản
biện, chỉ trích đến riêng các cơ quan có thẩm quyền.
IDS đã phản đối kịch liệt yêu cầu này nhưng vô ích.
Thay vì hoạt động trong điều kiện hạn chế như vậy, IDS
đã tự giải thể vào tháng 9 năm 2009.
Sau đó, Nguyễn
Quang A đã có nhiều đóng góp tập thể quan trọng nhằm thúc đẩy Việt Nam theo
con đường dân chủ. Một trong số đó là kêu gọi thảo
luận công khai về Hiến pháp của quốc gia vào năm 2013.
Khi Quốc hội công khai bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp
vào cuối năm 2012, ông và khoảng một chục người khác (nhiều người là thành viên
cũ của IDS) đã nhận thấy đây là cơ hội để người dân thảo luận về loại chính phủ
họ mong muốn. Nhóm của ông đã viết một bài phê phán bản dự thảo Hiến pháp của
Quốc hội, đồng thời kêu gọi những ý kiến đóng góp của người khác để hoàn chỉnh
bản hiến pháp kiến nghị, và sau đó thu thập sự ủng hộ. Tài liệu này được gọi là
Kiến nghị 72, tên gọi này xuất phát
từ số người ban đầu tham gia ký tên.
Điểm chính của Kiến nghị 72 là, nó coi hiến pháp sửa
đổi của Quốc hội “chắc chắn không phải là một hiến pháp dân chủ” khi các nhánh
chính quyền không được tách biệt và không đảm bảo “các quyền tự do ngôn luận,
báo chí, hội họp, lập hội, và biểu tình”.
Vào giữa tháng 1 năm 2013, Kiến nghị 72 được phát
hành lên Internet cùng với một bản Hiến pháp kiến nghị về một chính phủ dân chủ.
Đến tháng 5, hơn 14.400 người Việt Nam đã ký tên vào bản Kiến nghị, kết quả này
đã khuyến khích nhiều người đưa ra các ý tưởng khác về mô hình chính quyền của
Việt Nam.
Mặc dù cuộc thảo luận này ít có tác động đến bản Hiến
pháp sửa đổi 2013, song Nguyễn Quang A vui mừng vì nhóm của ông đã giúp tạo ra
một cuộc tranh luận rộng rãi.
Một hoạt động khác của ông là Diễn đàn Xã hội Dân sự, được ông và những người khác thành lập vào
tháng 9 năm 2013. Mục tiêu của Diễn đàn là “tập hợp và thảo luận những quan điểm góp phần chuyển đổi
hệ thống chính trị của đất nước từ độc tài sang dân chủ một cách hòa bình”.
Với mục đích này, cũng như mong muốn phát triển “xã hội dân sự, thiết chế cần thiết cho một nền
dân chủ”, Diễn đàn đã tạo ra một trang web để truyền tải “các ý tưởng của tất
cả các tổ chức, nhóm và cá nhân chia sẻ mục tiêu chung”. Diễn đàn cũng hợp tác
với các tổ chức khác vì các mục tiêu như chống bắt giữ các nhà bất đồng chính
kiến, và ủng hộ các cuộc biểu tình chống Trung cộng. Các thành viên cũng đã tìm
cách điều hành Diễn đàn này một cách dân chủ.
Tuy thực hiện nhiều hoạt động lớn, song cảnh sát
chưa bao giờ bắt Nguyễn Quang A, mặc dù họ thường xuyên quấy rầy ông. [Sau khi bài viết này của Giáo
sư Benedict J. Tria Kerkvliet được đăng tải năm 2014, ông Nguyễn Quang A
đã nhiều lần bị bắt và giam giữ dưới một ngày tại sân bay và nhiều địa điểm khác – ND]
Nhà báo Phạm Chí Dũng
Một nhà vận động xã hội dân sự khác là Phạm Chí
Dũng, sinh năm 1966 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông là một nhà báo và cũng là một
nhà kinh tế học.
Nhà
báo Phạm Chí Dũng là lãnh đạo của một trong các tổ chức xã hội dân sự không có
đăng ký của giới nhà báo Việt Nam hiện nay. Ảnh: Dân News.
Bắt đầu từ cuối những năm 1980, ông đã viết nhiều
tài liệu cũng như các bài báo về tình hình đất nước. Trong giai đoạn 2011-2012,
khi vẫn là một viên chức chính phủ, ông đã viết một loạt các bài báo về tham
nhũng bằng nhiều bút danh khác nhau. Ông bị bắt vào năm 2012 với cáo buộc phân
phối tài liệu nhằm lật đổ chính quyền cũng như cấu kết với các nhóm đối lập ở
nước ngoài. Cảnh sát giam giữ ông trong sáu tháng mà không chính thức kết tội,
song sau đó họ đã thả ông. Sau đó, cảnh sát thường xuyên quấy rầy ông.
Vào giữa năm 2013, ông tuyên bố rời khỏi ĐCS, ông cho rằng “ĐCS
không còn phục vụ và đại diện cho lợi ích của người dân nữa”.
Trong một bài báo kỷ niệm sự phát triển của xã hội
dân sự ở Việt Nam, Phạm Chí Dũng đã lưu ý đến những thiếu sót của nó. Ông hoan
nghênh số lượng ngày càng tăng của các tổ chức “độc lập” – tức các tổ chức tự
thành lập mà không xin phép chính quyền hoặc đăng ký với chính quyền.
Theo ông, một ví dụ tiêu biểu là nhóm Bauxite Việt Nam ra đời năm 2009.
Gần đây hơn là nhóm Kiến nghị 72, nhóm
mà ông coi là rất quan trọng đối với Việt Nam hệt như Hiến chương 77 của Tiệp
Khắc vào cuối những năm 1970-1980. Ông cũng vui mừng vì sự thành lập Hiệp hội
các cựu tù nhân lương tâm Việt Nam vào năm 2014.
Ông nói thêm rằng, số lượng
các tổ chức xã hội dân sự độc lập ngày càng tăng cho thấy rằng “cái thời” mà mọi
người sợ bày tỏ quan điểm trái ngược với chế độ “đang dần dần qua đi” và “hệ thống độc tài của đất nước đang thay đổi
hướng tới một hệ thống đa nguyên”. Tuy nhiên, về mặt tiêu cực, ông
cho rằng chất lượng của nhiều tổ chức rất thấp, “họ không hoạt động tích cực và
các thành viên thường thuộc về nhóm người lớn tuổi. Ông cho rằng “cuộc đấu
tranh cho dân chủ” cần phải có những khuôn mặt mới, các tổ chức xã hội dân sự
phải có các thành viên đến từ các thế hệ khác nhau, cũng như cần có sự hợp tác
giữa các nhóm.
Vào tháng 7 năm 2014, Phạm Chí Dũng và một số người
khác đã thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt
Nam. Ông trở thành chủ tịch Hội.
Hai trong số các mục đích của Hội này là bảo vệ các
nhà báo “bị sách nhiễu, bắt giữ, bỏ tù, hoặc khủng bố” và phản đối các luật lệ
“dùng để đàn áp tự do báo chí”. Hoạt động chính của Hội là xuất bản một tờ báo
trực tuyến hàng ngày, tên là Việt Nam Thời Báo, trong đó đăng tải những bài viết
về các sự kiện kinh tế, xã hội và chính trị ở Việt Nam mà phương tiện thông tin
đại chúng của nhà nước không đưa tin.
Ban đầu hiệp hội có 42 thành viên gồm cả nam và nữ, ở
các độ tuổi khác nhau và đến từ nhiều vùng của đất nước. Ngay sau khi ra đời,
nó đã hợp tác với các tổ chức khác.
Triển vọng hội tụ các cách tiếp
cận
Từ khoảng năm 2012-2013, những nhân vật
chính của cách tiếp cận đối đầu và
cách tiếp cận tham dự có
xu hướng đồng tình với giải pháp xã
hội dân sự.
Năm 2008, Nguyễn Vũ Bình – một nhà bất đồng chính kiến
nổi tiếng theo phương pháp đối đầu – đã lập luận rằng, để loại
bỏ chế độ, phong trào dân chủ cần phải có “sức
mạnh để tấn công vào các điểm yếu của ĐCS và nhà nước của nó”. Theo ông, “điều kiện cần là phải có một tổ chức cộng đồng
gồm những người đấu tranh cho dân chủ”, và đây là “một điều kiện tiên quyết
cơ bản” cho sự thành công mà những người tham gia phong trào phải nhận thức.
Tuy nhiên, đến năm 2014, Nguyễn Vũ Bình cho rằng Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức có thể dẫn
dắt phong trào, “và cũng không biết khi
nào sẽ có một tổ chức như thế”. Và thậm chí nếu có đi chăng nữa thì kết quả
vẫn rất mơ hồ. Chế độ này đã có “tám mươi
năm kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chính trị”, với “quân đội, cảnh sát, lực
lượng an ninh, và sức mạnh từ 30 tới 40 triệu người được hưởng lợi từ hệ thống
hiện tại”.
Với hoàn cảnh như vậy,
ông kết luận rằng giờ đây Việt Nam phải dựa vào xã hội dân sự để có thể tiến
hành dân chủ hóa. Ông kêu gọi “phát
triển xã hội dân sự ở nhiều khía cạnh của cuộc sống”, hướng các tổ chức
theo các khuynh hướng chính trị, và kết nối với những người tiến bộ trong Đảng
và nhà nước.
Trong khi đó, một số người ủng hộ cách tiếp cận tham
dự, vốn vẫn hoài nghi các tổ chức, các cuộc biểu tình, và các kiến nghị
chống lại chính phủ, gần đây đã bắt đầu ủng hộ các hành động tập thể. Ví dụ, Lê Hồng Hà (một nhà bất đồng chính kiến
chủ trương cách tiếp cận tham dự) viết vào năm 2012 rằng “trong vòng hai
năm trở lại đây, một phong trào cải thiện đất nước đã tăng tốc và được củng cố”.
Ông trích dẫn các cuộc biểu tình ủng hộ Cù Huy Hà Vũ, các cuộc biểu tình phản đối
việc xâm chiếm của Trung cộng và các kiến nghị phản đối khai thác bauxite. “Nhìn chung, các lực lượng tiến bộ dưới nhiều
hình thức khác nhau và với các quan điểm khác nhau đang gia tăng”.
Tương tự, đến năm 2013, Lữ Phương, một người ủng hộ cách tiếp cận tham dự, đã phấn khởi
khi nhận thấy phong trào chính trị đa dạng đang ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Ông cho rằng mọi người “đang gieo hạt giống
để đến một lúc thích hợp, đất nước sẽ thay đổi”. Theo ông, một trong những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt để hỗ trợ
phong trào chính là “khuyến khích và hỗ
trợ việc thành lập các tổ chức xã hội dân sự”.
Đến nay [2014], chúng ta vẫn chưa rõ liệu các nhà bất
đồng chính kiến có thể đi tới chỗ đồng thuận như vậy hay không. Tuy nhiên, một
điều đáng chú ý là, trong những năm gần đây các nhà bất đồng chính kiến đã bắt
đầu cộng tác với nhau, dẫu họ đến từ các cách tiếp cận dân chủ hóa khác nhau.
Dù thế nào chăng nữa, những nhà đấu tranh vì dân chủ và phong trào dân chủ hóa
cũng đã tạo ra dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử Việt Nam.
* Bài sử dụng ảnh bìa của tác giả Hoàng
Thành.
(Hết)
Luatkhoa.org