Tuần duyên Đông Nam Á và Trung cộng : Cuộc đấu không cân sức
Tàu hải cảnh Trung cộng.REUTERS
Trên biển khơi, giới chuyên gia quân sự thường phân biệt hai lực lượng :
Tàu trắng (thường được gọi trong tiếng Anh là white-hull), tức là các chiếc tàu
tuần duyên hay cảnh sát biển, và tàu xám (gray hull) tức là lực lượng Hải Quân.
Trên danh nghĩa, lực lượng tàu trắng được cho là ôn hòa hơn lực lượng tàu xám.
Tuy nhiên, thực tế tại Biển Đông rất khác : Tàu trắng Trung cộng là hung thần.
Trong bài phân tích mang tựa đề « Cuộc chiến tranh tàu vỏ trắng tại
Biển Đông »(The South China Sea's ‘White-Hull’ Warfare) đăng trên trang web
của tạp chí Mỹ The National Interest ngày 26/03/2016, nhà nghiên cứu Koh Swee
Lean Collin tại Singapore đã nêu bật tính chất dầy đặc và hung tợn của đội tàu
tuần duyên Trung cộng so với các nước Đông Nam Á.
Theo Koh Swee Lean Collin, trên lý thuyết thì lực lượng tuần duyên được xếp
vào diện bồ câu, trái với Hải Quân luôn gắn liền với khái niệm chiến tranh. Thế
nhưng, bồ câu nhiều khi cũng biến thành diều hâu, khi một quốc gia có một quan
điểm khác về cách sử dụng các phương tiện này. Trung cộng nằm trong trường hợp
đó, và một loạt sự cố trên Biển Đông trong những năm gần đây là bằng chứng cho
thấy là tàu « vỏ trắng » có thể trở thành hung dữ, trong lúc
Hải Quân thì lại tương đối ôn hòa hơn.
Trung
cộng hơn hẳn Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và Việt Nam
Tác giả trước hết so sánh thực lực của lực lượng tuần duyên – đúng ra là
tuần dương – Trung cộng với lực lượng cảnh sát biển của bốn nước Đông Nam Á
thường xuyên là nạn nhân của Trung cộng : Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và
Việt Nam.
Ghi nhận đầu tiên là tính chất
hùng hậu của hạm đội tàu trắng Trung cộng, mang tên chính thức là Hải Cảnh, tức
là Cảnh Sát Biển, hậu thân của các lực lượng Hải Giám và Ngư Chính, so với các
đội tàu yếu hơn nhiều của các đối thủ Đông Nam Á tại Biển Đông.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng không cân sức này là thái độ thờ ơ trước đây của các chính phủ Đông Nam Á
đối với các lực lượng trên biển, đặc biệt là tuần duyên, thể hiện qua việc dành
ngân sách quá ít cho ngành này.
Phải chờ cho mãi đến những năm
2000 mới thấy những thay đổi đầu tiên, khi khu vực chứng kiến một sự bùng lên
của nạn cướp biển, cũng như tình trạng tội phạm hàng hải xuyên quốc gia.
Để đối phó, các nước bắt đầu
thành lập các cơ quan chuyên trách : Cơ quan Thực Thi Pháp Luật Hàng hải Mã Lai
(MMEA) được thành lập vào năm 2005, trong lúc Nam Dương đổi tên cơ quan điều
phối của mình thành BAKAMLA vào năm 2014. Tại Việt Nam, lực lượng Ngư Chính mới
thành lập đã góp mặt cùng với lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam hình thành năm
2013.
Trên nguyên tắc, các cơ quan
cảnh sát biển có nhiệm vụ giảm bớt gánh nặng cho lực lượng Hải Quân trong thời
bình, và tạo điều kiện cho việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán trên
biển, được ghi trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Tuy nhiên, theo dữ liệu trong
bản báo cáo Cán Cân Quân Sự 2016 (Military Balance 2016), so với con số 326 tàu
của Hải Cảnh Trung cộng (trong đó có cả trăm tàu có khả năng tuần tra trên biển
khơi), lực lượng cảnh sát biển của các nước Đông Nam Á có quy mô khiêm tốn hơn
nhiều.
Tàu thuyền của cảnh sát biển
Đông Nam Á chủ yếu cũng chỉ bao gồm các loại hoạt động ven bờ, thiếu trang bị,
có thể đủ để chống tội phạm lặt vặt trên biển, nhưng hầu như bất lực khi phải
chống lại những đối thủ to lớn hơn, được trang bị tốt hơn, trong một môi trường
xa bờ.
Cuộc đối đầu hôm 19/03/2016
giữa hai lực lượng cảnh sát biển Trung cộng và Nam Dương ngoài khơi quần đảo
Natuna của Nam Dương là minh chứng cụ thể về những giới hạn mà lực lượng tuần
duyên Đông Nam Á đang gặp phải.
Đông Nam Á rất
thiếu tàu tuần tra ngoài khơi xa
Bài phân tích của chuyên gia
Singapore đã nêu bật tính chất yếu kém của lực lượng cảnh sát biển tại 4 quốc
gia Đông Nam Á được cho là đang có quan tâm đến vấn đề bảo vệ vùng biển của
mình.
Nam Dương (Nam
Dương)
Lực lượng tuần duyên BAKAMLA
của Nam Dương chỉ có hơn một trăm chiếc tàu trực thuộc nhiều cơ quan cấp dưới
khác nhau. Vấn đề là đại đa số những phương tiện này chỉ thích hợp cho các hải
vụ gần bờ hay ven biển mà thôi, chẳng hạn như chiếc tàu ngư chính Hiu-011, đã
can dự vào sự cố với tàu Trung cộng hôm 19/03 vừa qua. Nam Dương chỉ có không
đầy mười chiếc tàu có khả năng tuần tra ngoài biển khơi (OPVs).
Hải Quân Nam Dương vấn còn
được huy động vào các nhiệm vụ cảnh sát, nhưng số lượng tàu hoạt động được
ngoài khơi xa chẳng thấm vào đâu so với diện tích quá lớn của quần đảo Nam
Dương khổng lồ. Dẫu sao thì chỉ có ba trên tổng số 7 chiếc tàu Hải Quân Nam
Dương là túc trực tại vùng quần đảo Natuna, còn phần lớn công việc thực thi
luật pháp thì được giao cho cơ quan BAKAMLA thiếu phương tiện.
Mã Lai (Mã Lai)
Tại Mã Lai tình hình khá hơn
một chút. Hạm đội của cơ quan MMEA có khoảng 190 chiếc tàu. Thế nhưng cũng chỉ
có hai tàu có khả năng bảo vệ tuyên bố chủ quyền của Mã Lai ngoài khơi xa, và
các chiếc tàu này đều đã khoảng 30 tuổi. Tóm lại, Mã Lai có quá ít tàu trắng.
Chính vì lý do đó mà trong sự
cố South Luconia Shoals tháng 9 năm 2013, Hải Quân Mã Lai là lực lượng đầu tiên
phản ứng với sự xâm nhập của Trung cộng. Rõ ràng là cơ quan MMEA rất cần các
phương tiện hoạt động ngoài khơi xa, nhưng 7 chiếc tàu mới được đặt gần đây sẽ
còn mất nhiều thời gian nữa mối đi vào hoạt động, và sẽ không đủ cho vùng biển
rộng lớn của Mã Lai.
Phi Luật Tân (Phi
Luật Tân)
Lực lượng tuần duyên Phi Luật
Tân thì cũng chỉ có 72 chiếc tàu, trong đó có 5 chiếc đủ sức đi biển. Do đó,
lực lượng Hải Quân Phi Luật Tân phải gánh vác trách nhiệm thực thi luật pháp
trên Biển Đông, với hệ quả là bị Trung cộng làm nhục.
Tại bãi cạn Scarborough vào
tháng Tư năm 2012, tàu tuần duyên Trung cộng, dù nhỏ hơn, đã ngăn cản được
không cho tàu Hải quân Phi Luật Tân BRP Gregorio del Pilar bắt giữ ngư dân Trung
cộng. Kể từ đó, cảnh sát biển Trung cộng canh giữ thường trực vùng bãi cạn này,
trong lúc Manila tránh đưa tàu Hải Quân đến can thiệp.
Rõ ràng là lực lượng tuần
duyên Phi Luật Tân đã bị đối thủ Trung cộng đè bẹp, và như vậy, đã mặc nhiên
nhường quyền kiểm soát bãi Scarborough cho Bắc Kinh.
Việt Nam
Việt Nam trong tư thế khá hơn,
với lực lượng Cảnh Sát Biển có gần năm mươi tàu, bao gồm hơn mười chiếc có thể
hoạt động ngoài khơi xa. Tuy nhiên, Việt Nam đã thực sự cảm nhận sâu sắc sự
thiếu hụt phương tiện của mình nhân cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu HD-981 với Trung
cộng từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014.
Trước hết, do việc tàu của
mình thuộc loại nhỏ, lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam thiếu độ bền cần thiết để
bám trụ tại hiện trường, và vì vậy cần phải được liên tục luân phiên để duy trì
một sự hiện diện thường trực của Việt Nam. Một ví dụ : tàu tuần tra ngoài khơi
xa của Trung cộng có khả năng bám trụ bằng hai chiếc tàu Việt Nam luân phiên
thay thế nhau.
Về cơ bản, năng lực bảo vệ bờ biển của Việt Nam đã bị « căng ra » đến
mức tối đa khiến cho các phương tiện phải làm việc quá mức, đặt ra vấn đề bảo
trì.
Trung
cộng đã hiểu rõ thế yếu của Đông Nam Á để lợi dụng
Trung cộng có vẻ tự tin về thành công của họ tại Biển Đông. Tính toán của
họ đã đạt kết quả. Không những không có nước Đông Nam Á nào có lực lượng tuần
duyên nào đông và mạnh, đủ sức đáp trả thách thức đội tàu trắng của Trung cộng,
mà các nước đó lại phải tránh triển khai lực lượng Hải Quân, vì biết rằng về
mặt này, họ cũng thua kém.
Đối với tác giả, hiện thực Biển Đông đang là như sau : Trung cộng có một
lực lượng Hải Cảnh có quy mô lớn, bảo đảm năng lực « bình định » khu
vực cũng như tạo ra một vùng phòng thủ cho Trung cộng.
Trọng Nghĩa (RFI)