Tiềm năng và hiện thực trong hợp tác quân
sự Mỹ-Việt sau khi cấm vận vũ khí bị hủy bỏ
Vũ Quốc Ngữ dịch
(VNTB) - Trên tất cả, Washington muốn tiếp cận nhiều hơn tới vịnh
Cam Ranh và cảng chiến lược khác trên Biển Đông.
Trên tất
cả, Washington muốn tiếp cận nhiều hơn tới vịnh Cam Ranh
Với việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí và chuyển giao công nghệ quân sự cho
Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ đặt nền móng cho sự hợp tác hải quân rộng hơn, hiện thực
hóa một phần khiêm tốn nhưng quan trọng của chiến lược rộng lớn hơn trong khu vực.
Động thái này cũng có thể cầu cạnh các nhà lãnh đạo cứng rắn Việt Nam tại
thời điểm chuyển đổi quyền lực chính trị tại Hà Nội.
Giá thành cao sẽ hạn chế việc Việt Nam mua sắm vũ khí của Mỹ.
Phân
tích
Chỉ hơn 41 năm sau khi Việt Nam đánh bại Hoa Kỳ và các đồng minh của
mình, Tòa Bạch Ốc đang tiến tới việc bỏ qua một dấu tích của chính sách thời
Chiến tranh Lạnh để đạt được nhu cầu về chiến lược. Vào ngày 23/5, trong khi đứng
bên dưới một bức tượng bán thân của lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Tổng
thống Mỹ Barack Obama tuyên bố rằng Washington sẽ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí và
công nghệ quân sự đối với Việt Nam, một lệnh cấm đã được áp dụng khá lâu.
Việt Nam là nước đơn lẻ nhưng quan trọng trong tranh chấp trên Biển
Đông, vì vậy Washington quan tâm để giúp đất nước phát triển để có khả năng chống
lại sự bành trướng của Trung cộng. Nhưng việc dỡ bỏ lệnh cấm này sẽ không làm
thay đổi đáng kể tình hình an ninh trong khu vực. Giá vũ khí và công nghệ đắt
và chia rẽ chính trị ở Hà Nội sẽ kiềm chế mong muốn sở hữu của Việt Nam đối với
các loại vũ khí hiện đại của Hoa Kỳ, và nước này sẽ tiếp tục dựa vào các đối
tác quân sự truyền thống. Tuy nhiên, quyết định này sẽ giảm bớt những nghi ngờ
về ý định của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và đặt nền móng cho quan hệ quân sự chặt
chẽ hơn, hỗ trợ chiến lược rộng lớn hơn của Washington trong khu vực.
Tầm quan
trọng chiến lược của Việt Nam
Quan hệ giữa Washington và Hà Nội đã dần được cải thiện kể từ khi hai
nước nối lại quan hệ ngoại giao vào năm 1995, phần lớn là vì tầm quan trọng chiến
lược của Việt Nam trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Việt Nam là một trong những
đối thủ mạnh mẽ nhất của tuyên bố chủ quyền của Trung cộng ở Biển Đông, và sẵn
sàng chống lại tuyên bố trên. Quan điểm này được hình thành bởi sự quan trọng của
các hoạt động hàng hải đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, Trung cộng và Việt
Nam có một lịch sử tranh chấp lãnh thổ lâu dài, bao gồm cuộc chiến biên giới ngắn
ngủi vào năm 1979, cuộc giao tranh hải quân năm 1988 trên quần đảo Trường Sa,
và đối đầu ngoại giao khi Trung cộng đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển Việt
Nam năm 2014.
Kết quả là, Việt Nam là một những nước có chi tiêu quân sự cao nhất
trong Đông Nam Á. Hà Nội dành gần 8% ngân sách năm 2015 của mình cho quốc phòng
và dự kiến sẽ chi tiêu hơn 5 tỷ USD trong năm nay (tăng khoảng 1 tỷ USD so với
thập kỷ trước). Mặc dù vậy, số tiền này không là gì khi so sánh với con số ước
tính 215 tỷ USD mà Bắc Kinh chi cho quốc phòng năm ngoái. Nguồn lực tài chính hạn
hẹp và tiềm năng quân sự thua kém của Việt Nam không cho phép nước này đối đầu
với Trung cộng trong chiến tranh hải quân kéo dài.
Washington không ảo tưởng trong việc biến Việt Nam
thành nước có tiềm năng quân sự ngang hàng với Trung cộng, cũng không nghĩ rằng
Hà Nội muốn liên minh với Washington nhu liên minh giữa Mỹ với Nhật Bản và Hàn
Quốc. Thay vào đó, Hoa Kỳ muốn giúp đỡ Việt Nam để nước này mạnh hơn và có thể
bảo vệ chủ quyền và tăng cường hợp tác với các nước láng giềng, như nội hàm của
Sáng kiến an ninh hàng hải Đông Nam Á của Lầu Năm Góc. Việc loại bỏ cấm vận vũ khí đối với Việt Nam chỉ là một bước
đi mới nhất trong nhiều bước mà Hoa Kỳ đã và đang làm để khuyến khích và trang
bị cho các nước trong khu vực để chống lại sự bành trướng của Trung cộng ở Biển
Đông.
Mặc dù Hoa Kỳ nhiều lần từ chối đề nghị dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí trong
quá khứ của Hà Nội (với lý do bề ngoài là hồ sơ nhân quyền xấu), Washington đã
từng bước loại bỏ rào cản trong hợp tác quân sự với Việt Nam. Trong năm 2007,
Hoa Kỳ sửa đổi lệnh cấm, cho phép bán các thiết bị và dịch vụ quân sự không gây
sát thương cho Việt Nam trên cơ sở từng trường hợp cụ thể. Trong năm 2014,
Washington đã bắt đầu cho phép chuyển giao một số vũ khí sát thương và công nghệ
giám sát hàng hải hiện đại cho lực lượng hải quân Việt Nam. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã
thực hiện những cam kết khiêm tốn với Việt Nam, cung cấp nhiều tàu tuần tra với
tổng trị giá 18 triệu USD và khoảng 40 triệu USD cho Việt Nam để giúp nước này
tăng cường khả năng tình báo, giám sát và trinh sát hàng hải.
Cuộc
chơi của Hoa Kỳ đã muộn
Việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam sẽ không thay đổi căn bản cân bằng quân sự trong khu vực. Một phần bởi vì các nước
khác đã đáp ứng phần lớn nhu cầu quân sự của Việt Nam.
Nga, nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai thế giới, đã và đang cung cấp phần
lớn vũ khí và trang thiết bị quân sự cho Việt Nam kể từ thời Liên Xô. Nga có ít
lợi ích trực tiếp ở Biển Đông so với Trung cộng và Hoa Kỳ. Hà Nội, có lịch sử cảnh
giác với các liên minh mạnh mẽ bên ngoài, xem Moscow như một đối tác an
ninh lý tưởng. (Vì lý do tương tự, Thái Lan và Lào vừa ký thỏa thuận quân sự với
Nga.) Những vũ khí và thiết bị đáng chú ý mà Việt Nam mua từ Nga bao gồm máy
bay chiến đấu, tàu hộ tống hỏa tiễn hành trình, và các hệ thống phòng thủ bờ biển
và hỏa tiễn chống chiến hạm.
Trong tháng
12 năm 2015, Hà Nội đã vận hành tầu ngầm hạng Kilo đầu tiên trong số sáu tàu ngầm
do Nga sản xuất để tuần tra Biển Đông, và nước này nhận tàu ngầm thứ năm trong
tháng Giêng. Hồi đầu tháng này, Nga tuyên bố sẽ cung cấp thêm hai tàu khu trục
lớp Gepard cho Việt Nam trong tháng 8 và tháng 9. Nhiều công ty của Nga cũng
đang giúp Việt Nam hiện đại hóa cảng nước sâu chiến lược tại vịnh Cam Ranh.
Vai trò của Nga trong kế hoạch quốc phòng của Việt
Nam sẽ không giảm trong thời gian tới. Tuy nhiên, Hà Nội đang muốn đa dạng hóa các
nhà cung cấp vũ khí cho mình. Ấn Độ, ngoài việc cho vay mua tàu tuần tra và huấn
luyện tàu ngầm, đang xây dựng một trạm mặt đất cho các vệ tinh của nó ở Việt
Nam, giúp Việt Nam thúc đẩy giám sát hàng hải ở Biển Đông. Việt Nam cũng
được cho là đang đàm phán mua nhiều hệ thống pháo binh của Pháp, hỏa tiễn phòng
không của Israel, và máy bay giám sát từ Canada, cùng nhiều thiết bị quân sự
khác của nước ngoài. Những nhà cung cấp đó hoặc cung cấp mức giá thấp hơn Hoa Kỳ,
hoặc họ cho Việt Nam khả năng cắt giảm chi phí trong tương lai bằng cách giúp
nước này phát triển ngành vũ khí bản địa. Ví dụ, Việt Nam đã sản xuất vũ khí hạng
nhẹ theo bản quyền của Israel.
Mong muốn
hạn chế đối với vũ khí Mỹ
Tuy nhiên, quân đội Việt Nam quan tâm đến việc mua vũ khí hiện đại của
Hoa Kỳ. Việt Nam nhiệt tình trong việc vận động Mỹ loại bỏ cấm vận, và Hà Nội
đã tổ chức một hội thảo chuyên đề cho các nhà thầu quốc phòng của Hoa Kỳ vào đầu
tháng 5. Đặc biệt, Hà Nội được cho là đang quan tâm đến
máy bay trực thăng của Hoa Kỳ, thiết bị thông tin liên lạc, và thậm chí có thể
máy bay chiến đấu F-16.
Mối quan hệ với các nhà thầu Mỹ sẽ cải thiện vị thế mặc cả của Việt Nam
với các nhà cung cấp truyền thống của nó. Hơn nữa, sự quen thuộc với hệ thống của
Hoa Kỳ tạo sẽ tạo điều kiện nâng cao khả năng tương tác với các quân đội khác ở
Đông Nam Á, đặc biệt là Phi Luật Tân, Mã Lai và Tân Gia Ba, những nước mà Hà Nội
mong muốn thúc đẩy hợp tác hàng hải. Trong khi các thiết bị rẻ hơn của Nga hỗ
trợ lực lượng mặt đất và không quân của Việt Nam, Hà Nội
có thể tin rằng thiết bị quân sự hiện đại của Washington rất cần thiết cho chiến
tranh chống tàu ngầm với yêu cầu cao trong công tác tình báo, giám sát và trinh
sát. Cuối cùng, Việt Nam được cho là đang để mắt tới nhiều loại máy bay
trinh sát trên không do Hoa Kỳ chế tạo, như P-3 Orions.
Nhưng bất chấp sự tăng cường quân sự, Việt Nam
không ở vị thế để có thể mua các thiết bị quân sự hiện đại. Trong năm 2015, tổng sản
phẩm quốc nội của nước này chỉ dưới 200 tỷ USD, ngang hàng với một tỉnh nghèo của
Trung cộng. Một máy bay chiến đấu F-35 của Hoa Kỳ có thể có mức giá 100 triệu
USD. Thật vậy, kể từ khi Washington nới lỏng lệnh cấm vũ khí trong năm 2014, Việt
Nam chưa mua bất kỳ thiết bị nào của Mỹ, chủ yếu là vì lo ngại chi phí cao.
Trong khi đó, sự phụ thuộc gần như hoàn toàn của Việt Nam vào thiết bị của Nga
sẽ làm phức tạp việc sử dụng các công nghệ do Hoa Kỳ chế tạo, những loại thiết
bị đòi hỏi quân đội phải bảo trì, đào tạo và các hoạt động chuỗi cung ứng và đặt
ra thách thức khả năng tương tác giữa các hệ thống vũ khí khác nhau của nó.
Lợi ích
rộng lớn hơn
Tuy nhiên, mong muốn của Việt Nam trong việc mua vũ khí từ Hoa Kỳ, cho
dù còn ở mức hạn chế, cung cấp bằng chứng thực chất về vai trò kích động của Trung
cộng trong khu vực. Và mặc dù Việt Nam có ngân sách giới hạn, việc dỡ bỏ lệnh cấm
sẽ cho phép Hoa Kỳ cung cấp viện trợ quân sự lớn hơn trong tương lai. Có lẽ quan trọng nhất, mỗi lần chuyển nhượng vũ khí cùng với
giao lưu liên kết trong đào tạo và bảo trì sẽ thúc đẩy sự hiểu biết và tin cậy
giữa quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam, qua đó mở đường cho mối quan hệ mạnh mẽ hơn
trong tương lai.
Washington hy vọng động thái này sẽ khuyến khích hợp
tác quân sự trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như tập trận hàng hải chung. Trong chuyến thăm của
ông Obama, Việt Nam đồng ý cho phép Ngũ Giác Đài thiết lập các kho thiết bị
trong quốc gia này cho các hoạt động cứu trợ nhân đạo và đối phó thảm họa. Trên
tất cả, Washington muốn tiếp cận nhiều hơn tới vịnh Cam Ranh và cảng chiến lược
khác trên Biển Đông. (Hải quân Hoa Kỳ được phép chỉ có một chuyến thăm cảng Việt
Nam mỗi năm, trong khi tàu của Nga đã từ lâu được hưởng đặc quyền tiếp cận vịnh
Cam Ranh.) Hà Nội sẽ không để cho bất cứ nước nào thiết lập một căn cứ quân sự
thường trú tại Việt Nam, nhưng nó đã dần dần cho phép tàu chiến nước ngoài đến
vịnh Cam Ranh cho nhiệm vụ huấn luyện và tiếp tế. Nhật Bản, Tân Gia Ba và Pháp
đã tận dụng sự cho phép này trong năm nay.
Cuối cùng, mức độ hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam sẽ phụ thuộc vào việc bãi bỏ cấm vận có tăng quyền cho các nhà lãnh đạo
cứng rắn ở Hà Nội, đặc biệt là những tướng lãnh quân đội, những người có vai
trò chính trị hùng mạnh. Đầu năm nay, sự chuyển đổi quyền lực gây tranh
cãi trong Đảng Cộng sản Việt Nam gây chia rẽ sâu giữa những người lãnh đạo của
Đảng về cách chống lại sự xâm lấn của Trung cộng trong khu vực, và nhiều lãnh đạo
cao cấp vẫn còn nghi ngờ ý định của Hoa Kỳ. Mặc dù đảng Cộng sản đã ký vào Hiệp
ước thương mại xuyên Thái Bình Dương được dẫn đầu bởi Hoa Kỳ, nó thường xuyên cảnh
báo rằng hội nhập với phương Tây - đặc biệt là thông qua thương mại và đầu tư
nước ngoài - có thể làm phát sinh một cuộc cách mạng màu. Đảng tin rằng, để đảm
bảo sự tồn tại của nó, nó phải duy trì kiểm soát chặt chẽ tốc độ cải cách kinh
tế và tự do hóa chính trị.
Đối với Washington, việc duy trì lệnh cấm bán vũ khí như là đòn bẩy về
nhân quyền sẽ làm sâu sắc thêm mối nghi ngờ của Hà Nội trong khi hiệu quả của
việc này rất nhỏ trong việc buộc Hà Nội phải cải cách. Cho dù Hoa Kỳ nghiêm túc
đòi hỏi vấn đề nhân quyền, thì cấm vận đã làm giảm khả năng hợp tác về quân sự
và kinh tế trong thời điểm quan trọng khi Việt Nam có thế hệ lãnh đạo mới và bối
cảnh chiến lược rộng lớn hơn.