Trần Đức Dũng
Khởi đầu, những bộ tộc
nhỏ sống trên vùng đồng bằng giữa hai dòng sông; Hoàng Hà phía bắc và Dương Tử
phía nam, gọi nơi này là Trung Nguyên. Tức vùng bình nguyên giữa hai con sông. Trung là ở
giữa. Nguyên là cánh đồng. Cho nên chữ "Trung
Nguyên" chỉ có nghĩa là cánh đồng giữa hai giòng sông.
Hai chữ Trung Nguyên quá mơ hồ không rõ ràng, cho cả
vùng rộng lớn. Trong vùng này có một địa phương, khá đông dân cư, gọi là Hoa Âm
(thuộc địa phận tỉnh Hoa Nam hiện nay), nên còn được gọi là Trung Hoa. Từ đó
hai chữ "Trung Nguyên" hay "Trung Hoa" thường được dùng lẫn
lộn. Để phân biệt với Bắc Mạc, tức vùng sa mạc phía bắc sông Hoàng Hà, họ gọi
là "Trung Nguyên". Để phân biệt với Lĩnh Nam, tức vùng đồng bằng phía
nam sông Dương Tử, họ gọi là "Trung Hoa".
Thế rồi, qua nhiều thời kỳ,
các kẻ nắm quyền cai trị tự vẽ vời ra đủ điều để sơn phết cho hai chữ
"Trung Hoa" nhằm đánh bóng thân thế đối với các xứ lân cận.
Lúc này, bọn cầm quyền bắt tên bồi bút Khổng
Khâu, mà người Việt thường gọi là Khổng Tử, vẽ vời cho rằng
Trung là ở giữa, Hoa là có văn hóa. Ý muốn tôn xưng rằng chỉ có nơi đây mới là
trung tâm văn hóa của con người. Một loại “đỉnh cao trí tuệ” của
thế giới vào thời bấy giờ. Vì thế họ gọi những dân tộc sống vùng chung quanh là
súc vật, sâu bọ như: "Nam Man (chó); Bắc Địch (sâu); Đông
Di (rắn); Tây Nhung (khỉ)". Cũng bởi ngu si
và đầu óc bán khai, kém tiến hóa, nên họ không hề biết rằng gọi như thế tự
chính họ còn thua cả súc vật. Kẻ ngu si thường mắc phải căn bệnh hoang tưởng
này để giải tỏa ẩn ức tâm lý hèn kém, mà cho đến nay chúng ta vẫn còn nhận thấy.
Thật ra, tên họ Khổng xứ Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn
Đông) nhận lệnh đi ăn cắp văn hóa của phương Nam, tức của dân Bách Việt, rồi
đem về xào nấu, nên hắn ta chỉ dám gọi là đồ ăn cắp chứ không phải tự tay tạo
ra (thuật nhi bất tác). Bán
khai đến độ, hắn ta cũng không hề biết và cho rằng trà và lúa của dân Bách Việt phía nam sông Dương Tử
đang dùng là kỳ lạ và chẳng phải là những món ăn uống mà kẻ có văn hóa nên
dùng. Thế nhưng sau khi uống thử rồi
thấy ngon thấy ghiền. Cái
tài lưu manh của kẻ ăn cắp luôn
là tẩy xóa hết dấu vết cũ rồi cho là của mình. Để bây giờ cả thế giới, ngay người Việt cũng tin chắc rằng
trà phát xuất từ Tàu. Cũng theo
lệnh trên, tên bồi bút họ Khổng này đưa ra những thuyết ma mị để đặt ách nô lệ
lên đầu người dân như: thuyết thìên mệnh, ngũ thường, và trung quân ái quốc,
vân vân.
Con trời, gì mà bị kẻ khác soán ngôi tàn sát thẳng
tay không chừa một mống. Ngũ
thường gì mà trong cung đình, con giết cha để cướp ngôi, hai cha con cùng lấy một
vợ, con cướp vợ của cha rồi loạn luân, chém giết, tàn sát lẫn nhau, lẫn nhau đủ
kiểu. Thế nhưng chúng bắt mọi người dân phải trung thành với kẻ cai
trị mới gọi là yêu nước. Điều này chẳng khác gì hiện
nay bọn giặc cộng cố tình nhét vào đầu người dân Việt câu “yêu nước
là yêu chủ nghĩa xã hội.”
Thật ra, tên Khổng Khâu này chỉ là một kẻ bồi bút
cho bọn cầm quyền vào thời bấy giờ. Chẳng khác nào Tố Hữu, Cù Huy Cận, Chế Lan
Viên, Xuân Diệu sau này của Việt cộng. Và hiện nay, để áp đặt ách nô lệ này, giặc
Bắc ra lệnh cho bọn tay sai Việt cộng thành lập viện Khổng Tử tại Hà Nội để bắt
dân Việt thờ lạy như ngày trước trong thời đại phong kiến gọi là Văn Miếu.
Những người Việt mang nặng tinh thần nô lệ nên cứ
mãi bị giặc Bắc lừa gạt mà tôn thờ tên bồi bút này là "bậc thầy muôn đời"
("vạn thế sư biểu"). Hãy để cho những người này thỏa mãn kiếp
nô lệ và thờ Tàu của họ. Nhưng chúng ta, những người Việt biết tự trọng và có
tinh thần dân tộc, không nên làm điều này. Không những thế, mỗi người nên có
trách nhiệm đối với dân tộc và tổ quốc. Nghĩa là khi nghe người khác hiểu sai
nói sai, chúng ta nên trình bày, giải thích cho họ hiểu rõ sự việc. Cùng giúp
nhau hiểu rõ vấn đề, thì không có gì phải ngần ngại, hay lo sợ cả. Mà đây lại
là vấn đề sống còn của cả một dân tộc. Đây là trách nhiệm của mọi người Việt,
không riêng gì ai cả. Mọi người dân đều hiểu rõ tức là dân trí được nâng cao. Sự
hiểu biết của người dân càng nhiều, bọn Việt cộng càng lo sợ. Điều này ai cũng
hiểu cả.
Để áp đặt tinh thần nô lệ và phong kiến
trở lại, kẻ cầm quyền Việt cộng đang âm thầm đem các từ ngữ mang nặng tính thần
quan liêu phong kiến, vào đầu người Việt như: quan chức, ngài. Người Việt sống tại Miền
Nam trước năm 1975 sẽ dễ dàng nhận ra điều này. Danh từ quan chức hoàn toàn
không có trong ngôn ngữ Miền Nam. Thay vào đó, là nhân viên, hay viên chức
chính quyền. Hoàn toàn không có chữ quan trong đầu người dân sống dưới chế độ tự
do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa. Danh từ ngài, chỉ dùng cho các đấng tối cao, giáo
chủ trong tôn giáo. Trường hợp ngôi thứ hai trong văn bản, thì chỉ là: “Thưa
tổng thống.” Không bao giờ có hình ảnh của kẻ nô lệ cúi đầu khuất phục như
trong câu: “Kính thưa ngài thủ tướng,” như hiện nay trong xã hội cộng sản.
Nêu ra điều này để mọi người cùng nhận ra rằng, qua
ngôn ngữ, Việt cộng đã cố tình đưa người dân Việt trở về thời kỳ quan liêu
phong kiến và nô lệ cũ.
Từ xưa, Trung Nguyên này là nơi tranh giành quyền lực
tự do và được xem là vườn hưu hoang không có chủ. Kẻ nào giành được thì mặc sức
mà cai trị; và họ cũng chẳng có khái niệm gì về quốc gia dân tộc. Kẻ nắm quyền
cai trị luôn có tham vọng bành trướng và xâm chiếm các nước chung quanh. Thời kỳ
Chiến Quốc là một thí dụ điển hình lịch sử về sự tranh giành quyền lực nơi vườn
hưu hoang này. Với tinh thần đó, và nhằm trấn áp người dân để cai trị nên kẻ
nào lên nắm quyền cũng tự xưng mình là con trời, là lớn, là đại.
Như Đại Chu, Đại Tần, Đại Hán, Đại Đường, Đại Tống, Đại Nguyên, Đại Minh, Đại
Thanh. Đại sau thẳng tay tàn sát tiêu diệt đại trước. Và đại cuối cùng thì bị
tám cường quốc Tây phương cùng nhau xẻ thịt. Nên thực tế chẳng có ma nào là đại
cả.
Cho nên người Tàu chỉ có
khái niệm về triều đại chứ không biết thế nào là dân tộc và tổ quốc. Điều
này còn hiện rõ trong nếp sinh hoạt của người Tàu hiện nay nơi hải ngoại. Thí dụ;
Tàu Hồng Kông, Tàu Singapore, Tàu Đài Loan, Tàu Phúc Kiến, Tàu Quảng Đông, Tàu
Mã Lai, vân vân. Không Tàu nào chịu chơi chung với Tàu khác cả. Bởi điều dễ hiểu,
trong đầu người dân đến cả kẻ nắm quyền cai trị, không có dân tộc Tàu, không có
dân tộc Trung Hoa, hay Trung Quốc. Bởi thế, để thực hiện “Bước Tiến Nhảy Vọt,”
dùng lương thực của Tàu đổi lấy kỹ thuật của các nước cộng sản Đông Âu, Mao Trạch
Đông sẵn sàng cho 17 triệu người Tàu chết đói mà chẳng hề bận tâm.
Chữ “triều” có nghĩa là nhiều lượn
sóng có ngọn gập đầu xuống cùng nhau chạy về một hướng, là tấp vào bờ, như thủy
triều, hải triều. Từ đó, bọn cai trị dùng chữ triều mang ý nghĩa cùng khoanh
tay cúi đầu chầu và hướng về. Bởi vậy trên trang phục chúng luôn cho thêu nhiều
lượn sóng cuốn gục đầu trên áo quần các quan lại, hoặc các nơi như sảnh đường xử
án. Và khi gặp nhau, kẻ dưới phải khoanh tay và cúi đầu theo đúng hình ảnh của
chữ triều đã thêu trên quần áo, và hiện hữu khắp nơi qua tranh ảnh, chạm khắc.
Nói theo ngôn ngữ trong khoa Tâm Lý Học, đó là những kỹ thuật khống chế tư tưởng
(mind control) vô cùng tinh vi và ma quỷ.
“Triều cống” nghĩa là cúi đầu dâng nộp phẩm vật
quý giá lên cho ông chủ. “Triều đình” là cái sân để cả đám quan lại đứng
khoanh tay cúi đầu chầu về ông vua ngồi trên cao. “Triều đại” có ý nghĩa
nguyên thủy là khoanh tay cuối đầu hướng về ông chủ lớn. Những chữ này, thể hiện
tinh thần ngạo mạn, tham vọng quyền lực, luôn bắt các nước nhỏ xung quanh phải
quy phục kẻ cai trị ngồi ở giữa. Các chữ Trung Hoa hay Trung Quốc cũng mang
tinh thần ngu xuẩn nhưng ngạo mạn này. Ngày nay với kiến
thức về địa dư thế giới, mọi người Việt đều biết rõ xứ này chẳng có gì để tự
xưng là “Nước Ở Giữa” cả. Thế nhưng nhiều người Việt vẫn đang chấp
nhận điều này qua ngôn ngữ. Đây là biểu hiện của một kiến thức kém cõi và nặng
tinh thần nô lệ.
Người Việt, sống trên vùng đất phía nam sông Dương Tử,
từ vùng núi Ngũ Lĩnh và hồ Động Đình trở về nam, nên gọi là xứ Lĩnh
Nam. Họ vẫn luôn biết mình là dân tộc Bách Việt. Để chống lại ý tưởng
bá chủ, hống hách của những kẻ phương Bắc, và quyết tâm giữ vững tinh thần tự
chủ và độc lập, người Việt luôn nêu cao tinh thần Đại Việt, Đại Nam qua mọi thời
kỳ lịch sử.
Lưu Bang, một tên thôn trưởng lưu manh sống bên dòng
sông Hán Thủy, cướp công Hạng Võ, diệt Tần lên nắm quyền cai trị (256 trước
TL). Để thành lập triều đại, Lưu Bang lấy chữ Hán từ
tên con sông rồi gọi là “Triều Hán,” và tự xưng là “Đại Hán.” Sự
cai trị của dòng họ lưu manh này kéo dài suốt 400 năm, nên hai chữ "đại
Hán" đã ăn sâu vào đầu của nhiều thế hệ dân cư trong vùng. Để sống còn,
tránh cảnh bị tàn sát và tiêu diệt, dân tộc hay bộ tộc nào trong vùng bị
cai trị cũng tự gọi mình là người Hán. Ngay cả chữ viết đã có trước đó từ lâu
chúng cũng bắt mọi người gọi là chữ Hán.
Người Việt sau này, dưới sự áp đặt của
Tàu mấy trăm năm trước cũng mặc nhiên chấp nhận điều này. Cho đến nay, hầu hết người Việt cũng vẫn còn gọi là chữ Hán.
Không mấy ai dám gọi là chữ Tàu cả. Vì họ sợ. Sợ điều gì họ
cũng không rõ. Nhưng vẫn cứ sợ và gọi như thế là đủ an tâm. Nêu điều này ra để
chúng ta cùng nhận rõ cái tinh thần nô lệ này đã truyền đời đến cả ngàn năm nay
vẫn còn nhiều người Việt không chịu nhận ra và quyết tâm tiêu trừ.
Sau khi Mông Cổ diệt Đại Tống lập Đại Nguyên cai trị
xứ này cả trăm năm. Đến khi Trần Hữu Lượng (Lượng là con trai Chiêu Quốc Vương
Trần Ích Tắc – qua việc thông đồng với giặc, vương bị anh là vua Trần Thánh
Tông không giết nhưng đuổi ra khỏi Việt Nam và qua Tàu sống ở vùng Trường Sa,
Quảng Đông ngày ngay) đánh đuổi Mông Cổ chuẩn bị lên ngôi thì bị Chu Nguyên
Chương cướp công và lập nên Đại Minh. Dòng họ Ái Tân Giác La của bộ tộc Mãn
Châu (Nữ Chân, Kim sau đổi là Thanh) diệt Minh, rồi cũng gọi là Đại Thanh. Thời
kỳ nầy không còn ai dám nhận mình là Đại Hán hoặc Đại Minh nữa cả. Và bọn đại
hán (trong đầu người Việt) phải cạo đầu thắt bính như người Mãn Châu. Nếu không
sẽ bị chặt đầu ngay. Lúc bấy giờ, trong dân gian, vì quen miệng họ vẫn gọi xứ
này là Trung Nguyên hay Trung Hoa. Tuy rằng biên giới đã vượt qua sông Dương Tử
và tiến xa xuống phương nam.
Sau này một vài người Tây phương, vốn không biết nhiều
về xứ này, nên cho rằng người sống ở đây là dân Hán, nhưng họ lại gọi là nước Tần.
Người Việt vốn nặng tinh thần nô lệ lại tôn thờ khoa học tây phương, nghe người
da trắng Âu Châu gọi thế nên vội vã cho là có tộc Hán. Đây là sự di căn của căn
bện nô lệ. Ngày trước họ thờ Tàu. Khi Tàu đi, Tây đến thì họ đành phải thờ Tây.
Đối với họ hễ người Tây phương nói là phải đúng, và họ không hiểu rõ nghĩa chữ
tộc trong tiếng Việt. Điều này
cũng ngây ngô chẳng khác nào hiện nay bảo những người sống tại Mỹ là dân tộc
Hoa Kỳ. Ai cũng biết chỉ có người Mỹ chứ không có dân tộc Hoa Kỳ. Xứ Tàu cũng chỉ là một loại hợp chủng quốc ở Châu Á mà thôi.
Hiện nay, ngoài hàng trăm ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số, Tàu vẫn
còn xử dụng sáu ngôn ngữ chính. Ngay cả Mao Trạch Đông vẫn nói tiếng Hồ Nam,
khiến nhiều người Tàu nghe không hiểu. Không có ngôn ngữ Tàu chính thống, tuy rằng
phần lớn là tiếng Việt do dân Bách Việt sống khá nhiều ở vùng phía Nam sông
Dương Tử, mà còn giữ rõ âm Việt nhất là tiếng Quảng Đông, Quảng Tây. Vì sự kiện
này nhiều người Việt Nam, không chịu tìm hiểu lịch sử của tộc Bách Việt, lại nặng
tinh thần nô lệ, nên cứ cho rằng tiếng Việt hiện nay là mượn từ tiếng Quảng
Đông của Tàu.
Dù vẫn còn sáu ngôn ngữ chính, nhưng chữ viết chỉ một, do Doanh
Chính, tức Tần Thủy Hoàng, thống nhất chữ viết để dễ bề cai trị, và gọi là
"quan thoại", tức ngôn ngữ của quan lại. Đến thời
bạo chúa Mao Trạch Đông, vốn xem Tần Thủy Hoàng là thần tượng, cũng bắt chước
Doanh Chinh bắt sửa lại chữ Tàu và gọi là chữ Tàu đơn giản. Ở đây chúng ta gọi
là chữ Tàu, nhưng sẽ còn vô số người Việt quyết tâm giữ chữ Hán trong đầu cho đến
chết, và truyền lại cho con cháu.
Dưới áp lực xâm lăng của giặc Bắc, người Việt từ
vùng Động Đình Hồ, dần dần bị đẩy xa về phương nam. Qua thời gian, người Việt
còn ở lại vùng phía Nam sông Dương Tử đã quên mất nguồn gốc Bách Việt của mình.
Nhưng họ không hề bị đồng hóa, vì dân số Việt tộc ở những vùng này vẫn luôn nhiều
hơn những bộ tộc hỗn tạp nhỏ khác. Họ chỉ mất gốc. Một điển hình trong lịch sử
cận đại là Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen), sinh ở Quảng Đông, người mà dân Tàu đang
thờ phượng và suy tôn là cha đẻ của cuộc Cách Mạng Tam Dân, vốn là người Việt.
Ông ta biết rõ điều này. Tuy vậy, vì quá lâu đời và vì sự nghiệp chính trị ông
không dám nói rõ thân thế. Trong
khi đó dòng họ Lý của Việt Nam sống tại Đại Hàn gần ngàn năm nay vẫn luôn tự
hào mình là người gốc Việt. Nên khi vừa lên cầm quyền, tổng thống Lý Thừa Vãn của
Nam Hàn đã nhờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm truy tìm gia phả của dòng họ Lý tại Việt
Nam.
Chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) mọi người Việt
đều đã biết. Sau khi đánh quân Thanh một trận nhớ đời và đuổi ra khỏi bờ cõi,
Quang Trung Hoàng Đế liền có kế hoạch lấy lại đất bị giặc Bắc cướp trước đó.
Theo chương trình, vua Quang Trung sẽ đuổi Mãn Thanh trở ngược về phía Bắc sông
Dương Tử, quyết lấy lại vùng Lĩnh Nam của dân Bách Việt ngày xưa. Bước đầu, nhà
vua bắt Càn Long phải gả con gái và trả lại hai vùng đất Quảng Đông và Quảng
Tây. Sau đó sẽ làm bàn đạp để Bắc tiến và Tây tiến. Càn Long liền gởi chiếu mời
vua Quang Trung sang Bắc Kinh để đàm phán. Nhắm để phòng sự tráo trở của giặc Bắc
cùng sẵn dịp hạ nhục Càn Long của Đại Thanh, vị Hoàng Đế Đại Việt cho người giả
trang dẫn phái đoàn sang Tàu. Trên đường đi phái đoàn Việt cố tình hành hạ bọn
quan lại Tàu đủ điều, nhưng chúng cũng phải cúi đầu chịu nhục. Càn Long vẫn biết
rõ trưởng phái đoàn chỉ là vị vua giả. Nhưng mở miệng ra lại sợ nhục nhã, nên hắn
đành phải câm miệng và dùng đủ lễ nghi để tiếp đãi phái đoàn. Đây cũng là một sự
nhục nhã nặng nề mà Càn Long của Đại Thanh đành phải nuốt sâu vào lòng.
Vua Quang Trung cho Càn Long biết, nếu không chịu trả
đất, vua Việt sẽ giúp bọn phục Minh nổi dậy diệt Thanh.
Vừa mới bị đánh một trận kinh hoàng, lại muốn giữ
ngôi để tiếp tục cai trị xứ Tàu, Càn Long đành phải nuốt nhục cúi đầu chấp nhận.
Nhưng mọi việc chưa xong thì vua Quang Trung băng hà. Thế là việc đòi lại đất của
người Việt xem như bất thành.
Nếu vua Quang Trung không mất sớm và bắt Càn Long của
Đại Thanh trả lại Quảng Đông, Quảng Tây cho Đại Việt thì hôm nay đã không có
Tôn Dật Tiên cho dân Tàu thờ làm "Quốc Phụ". Nêu ra điều này để người
dân Việt thấy được sự ngu ngốc của người Tàu. Đúng ra, mọi người Việt đều có bổn
phận phải nói rõ điều này cho người Tàu, và nhất là cho Tập Cận Bình biết mỗi
khi hắn cúi đầu lạy Tôn Dật Tiên.
Chữ “Qin”
được Tàu phát âm là “Ch’in,”
người Việt phát âm là Tần. Từ âm “Ch’in” này người da
trắng gọi xứ này là China hay Sino. Khi
nắm quyền Doanh Chính dùng chữ "Đại Tần" vì lấy tên địa phương của xứ
Tần (hiện nay thuộc tỉnh Giang Tô). Cho nên người Tây
phương dùng chữ China, Sino,
Chinois là do sự diễn âm chữ Tần (“Ch’in”), để gọi xứ này. Hoàn toàn không có ý
nghĩa gì là “Nước Ở Giữa” cả. Xin người Việt không nên đem hình ảnh
của hai chữ Trung Quốc trong đầu của mình mà áp đặt lên chữ China, Sino của người
da trắng.
Người da trắng
gọi họ là Tần. Tại sao chúng ta không dám gọi họ là Chệt hay Tàu? Hỏi tức đã trả
lời rồi vậy.
Mãi đến thời kỳ Mãn Thanh vẫn chưa có hai
chữ "Trung Quốc". Năm
1927, Nhật tiến chiếm vùng Mãn Châu, lập ra Mãn Châu Quốc, sau đó cai trị toàn
xứ Tàu. Tiếp theo xứ Tàu bị Hoa Kỳ chẻ ra làm hai thế lực chính trị vào
năm 1949. Ngay sau khi đánh bại Nhật, năm 1945, lúc đầu Mỹ tính giao cả nước
Tàu cho Tưởng Giới Thạch, để loại trừ Trương Học Lương, vốn gốc Mãn Châu, lên
năm quyền. Nhưng sau đó, năm 1948, Mỹ đổi ý, đem giao cả đại lục cho Mao Trạch
Đông, được gọi là People’s Republic of China. Đảo Đài Loan thì Mỹ
giao cho Tưởng Giới Thạch được gọi là Republic of China. Để làm vui
lòng kẻ bị bạc đãi vì chia đất cho quá ít, Mỹ cho Tưởng Giới Thạch vào Liên Hiệp
Quốc để xoa dịu tự ái. Đến năm 1972, sau thời gian đủ lâu, Mỹ đuổi Tưởng ra khỏi
Liên Hiệp Quốc, đem Mao Trạch Đông vào thay thế. Và bắt Tưởng phải dẹp bỏ danh
xưng Republic of China, mà từ đó về sau chỉ được gọi là Taiwan, không có vị thế
quốc gia trên chính trường quốc tế.
Hai xứ này, lúc bấy giờ, nếu dịch sang tiếng Việt
cho đúng nghĩa quốc tế, ở đây chúng ta sẽ dựa trên tiếng Mỹ, phải là Cộng
Hòa Nhân Dân Tàu (Tần), và Cộng Hòa Tàu (Tần). Cũng như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là
Socialist Republic of Vietnam, hay Việt Nam Cộng Hòa là Republic of Vietnam.
Ở đây, chúng ta nhận ra thêm một điều vô cùng quan trọng là, do bản chất nô lệ giặc Bắc, Việt cộng đã âm thầm dùng tiếng
Việt theo kiểu Tàu. Các chữ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đi trước hai chữ
Việt Nam. Có nghĩa là tĩnh từ đi trước danh từ. Trong khi đó danh xưng
Việt Nam Cộng Hòa, tĩnh từ phải đi sau danh từ. Người Việt chúng ta chỉ nói
trái ổi xanh, hoặc biển xanh. Chỉ có dân Tàu mới nói xanh trái ổi, và thương hải.
Có người sẽ cho
rằng chỉ là thứ tự trước sau, ý nghĩa vẫn có đủ, việc gì mà phải chẻ sợi tóc
làm tư.
Xin thưa. Một đảng
viên cộng sản, dù nói hay viết, mà dùng chữ nhân dân, hay nhà nước trước chữ đảng,
chắc chắn sẽ bị giết ngay. Thực tế, không có người nào dám làm điều này. Bởi họ
biết rõ nguyên tắc sinh tử của băng đảng sắt máu côn đồ này là: Nói Bậy Là Chết.
Trở lại hai chữ
Trung Quốc. Người Tàu, bởi ngu si lại nặng tinh thần hống hách luôn tự cho mình
là lớn, là trung tâm của thế giới, nên họ tự gọi là Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa, và Cộng Hòa Trung Hoa, viết và hiểu theo cách Tàu
dùng tiếng Việt. Sau khi được Mỹ giao cho cai trị toàn miền đại lục, Mao Trạch
Đông vẫn tiếp tục truyền thống ngu si và bạo chúa nên tự gọi là "Trung Quốc":
Thứ nhất: nhắm kích thích tinh thần ngông cuồng của dân trong xứ.
Thứ hai: bắt
cộng sản Việt Nam phải tuân dùng theo, để tròng ách nô lệ lên đầu người Việt, mà
trước nhất là những kẻ tay sai Việt cộng.
Hiểu một cách rõ ràng,
chữ "Trung Quốc" vẫn hoàn toàn không có ý nghĩa gì là “Nước Ở Giữa” cả.
Bởi chữ Trung vốn có gốc từ chữ Trung Nguyên từ thời xa xưa. Tuy vậy, Tàu cộng
vẫn mập mờ để bắt Việt cộng phải áp đặt vào đầu những người Việt, kém hiểu biết
lại nặng tinh thần nô lệ phương Bắc, nên tự suy diễn ra là “Nước Ở Giữa” để
nuôi trong đầu.
Vốn là kẻ tôi tớ
luôn cúi đầu phục tùng mệnh lệnh của ông chủ, lại sống kiếp sống của kẻ vô tổ
quốc, phi dân tộc, nên người cộng sản Việt Nam không
dám gọi là Tàu. Và họ bắt người dân phải gọi là "Trung Quốc" để áp đặt và nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người
Việt qua ngôn ngữ.
Trước năm 1975,
người Việt tại Miền Nam thường gọi hai quốc gia này là "Trung Hoa
Cộng Sản" và "Trung Hoa Quốc Gia" để chỉ
cho hai thể chế chính trị, nhưng vẫn gọi chung là người Tàu. Như; Tàu Đài Loan,
Tàu Chợ Lớn, Tàu Hồng Kông, Tàu Đại Lục. Chính những người Tàu sống ở Việt Nam
cũng tự gọi họ là người Tàu. Từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm, chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa cấm không cho người Tàu làm 11 nghề chính để bảo vệ kinh tế cho
người dân Việt Nam. Nguồn gốc phát xuất âm Tàu trong tiếng Việt, cho đến nay vẫn
chưa rõ ràng. Có thể là do nghe và nói lại một cách sai lạc âm của chữ Tần mà
người Tây Phương tại Việt Nam thường dùng vào thế kỷ 18, 19. Cả Philippines,
Thailand, Kampuchia, trong ngôn ngữ của các quốc gia này, họ cũng không gọi xứ
này là “Nước Ở Giữa.” Riêng người Nhật dùng chữ China với ý nghĩa khinh miệt là
lũ người bệnh hoạn, ngu si, nhu nhược, yếu hèn. Đến nay chỉ có người Tàu và dân
Việt dùng chữ "Trung Quốc".
Nếu chia sẻ điều này ra nơi đây, để mọi
người cùng nhận thấy rõ sự nô lệ trong tư tưởng, thể hiện qua ngôn ngữ của người
Việt, do sự tiếp tay của Việt cộng, đã bị Tàu cộng áp đặt sâu nặng đến thế nào.
Một thí dụ điển hình cho căn bệnh nô lệ giặc Bắc, là cho đến hôm nay,
trong đầu khá nhiều người Việt vẫn tin chắc rằng võ thuật của Việt Nam thì phải
“bắt nguồn từ Trung Quốc.” Hỏi tiếp nữa thì họ chống chế rằng bởi từ Thiếu Lâm
Tự, và do Đạt Ma Sư Tổ truyền ra. Quả là khôi hài. Nếu vậy thì phải bảo rằng võ
thuật của Tàu vốn do Ấn Độ truyền sang. Khổ thật. Kiến thức của họ đã kém, khả
năng suy luận cũng không có, lại mang nặng căn bệnh thờ Tàu. Từ thời Khổng
Khâu xa xưa mãi cho đến hôm nay, bọn người này chỉ có truyền thống chuyên nghiệp
là đi ăn cắp và ăn cướp, xong đem về bôi xóa dấu vết rồi cho là của mình.
Vì thế, để thể hiện tinh thần tự chủ và độc lập của dân tộc,
người Việt nên ý thức rõ điều này. Và không nên dùng
hai chữ Trung Quốc. Bởi đây là thâm ý của cộng sản Việt, theo lệnh ông
chủ Bắc Kinh, cố tình nhồi nhét tinh thần nô lệ vào đầu người dân Việt Nam.
Do đó, để chống Tàu, trước hết mọi người Việt nên chống
lại âm mưu áp đặt tinh thần nô lệ này, qua ngôn ngữ, của giặc Bắc.
Nếu vẫn có người
chưa chịu tin điều này, xin hãy nhớ lại chữ “triều” và hình ảnh những lượn sóng
cuộn đầu trên áo quần quan lại thời phong kiến của Tàu ngày xưa. Xin nhắc lại,
đây là kỹ thuật khống chế tư tưởng (mind control) nhắm đánh sâu vào vô
thức (subconcious, 88%), không nằm trên bình diện ý thức (concious, 12%) nên
khó lòng nhận biết.
Việc chống Tàu
qua ngôn ngữ nô lệ và mất nước này sẽ không dễ dàng vì bọn tay sai Việt cộng,
theo lệnh chủ, đang tận sức phá nát ngôn ngữ Việt chính thống nhắm thay thế và
áp đặt ách nô lệ qua ngôn ngữ trong mọi hoàn cảnh. Người dân Việt vô tình, nhưng bọn Việt cộng lại quyết tâm. Tránh sao khỏi cảnh này. Bao năm qua vì vô tình,
không đế ý, nhiều người đã dùng đến quen miệng. Bây giờ mở miệng ra nói khác đi
chắc chắn sẽ khó làm được ngay. Nếu không tin, mọi người hãy thử và sẽ thấy rõ
tác dụng này.
Bảo rằng do thói
quen, thì nên tự hỏi mình có dám bỏ cái thói quen này hay không? Dĩ nhiên,
không mấy ai dám chấp nhận rằng vì sợ nên phải dùng hai chữ Trung Quốc. Vẫn có
nhiều người sẽ tìm đủ lý do để biện minh cho hai chữ "Trung Quốc" nơi
cửa miệng.
Chắc chắn có người sẽ cho rằng "Trung Hoa hay Trung Quốc cũng chỉ là
danh xưng, đâu có gì quan trọng". Những người này đang tự lừa dối chính
mình và cố tình dùng xảo ngôn để lấp liếm và che dấu căn bệnh nô lệ truyền đời.
Nếu chỉ là danh từ, và không có ý gì, thì tại sao không dám gọi là Tàu cộng?
Vậy tại sao mình phải tìm đủ lý do để dùng hai chữ "Trung
Quốc"? Hãy cố gắng tự nhớ lại xem mình bắt đầu dùng từ lúc nào, để
bây giờ gọi là quen miệng? Và tại sao mình
không dám gọi là Tàu cộng?
Nếu không dám tức
là đã có nỗi lo sợ ẩn sâu trong đầu. Bởi sợ mới không dám. Sợ điều gì? Sợ ai?
Hoàn toàn tìm không ra dấu vết. Đây chính là cái tác dụng của sự nô lệ và hèn
nhược qua ảnh hưởng của ngôn ngữ. Đây cũng là hậu quả của sự khống chế tư tưởng
(mind control) đã nêu ra ở trên. Có vài người, vì mặc cảm tự ti kém khuyết,
để tự gạt mình nhằm che dấu căn bệnh nô lệ ẩn sâu trong tư tưởng, họ bảo rằng gọi
như thế sẽ làm giảm giá trị trình độ trí thức và lịch sự của họ. Vì thế họ chỉ
dám dùng chữ Trung Quốc, Trung Hoa để chứng tỏ họ là kẻ có học thức, là
người lịch sự.
Khi vua Quang Trung tuyên bố trước ba quân: “Phải đuổi hết lũ giặc phương Bắc
ra khỏi bờ cõi. Đánh cho chúng nó không còn manh giáp.” Ai dám bảo vua Quang Trung là phường vô học?
Trong cuộc hải
chiến Hoàng Sa, tháng 1/1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Hải Quân
Việt Nam Cộng Hòa: “Các anh cứ đánh tụi nó thẳng tay cho tôi.” Ai dám bảo
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người thiếu lịch sự?
Để giữ gìn nền độc
lập và tinh thần tự chủ của dân tộc, mong rằng những người Việt này cũng nên từ
bỏ cái ảo giác có học thức và lịch sự của mình.
Nên hiểu rằng
khi người Tây phương gọi những xứ này là China, Sino, Chinois, qua ngôn ngữ của
họ, trong đầu họ vẫn xem đó là xứ Tần. Qua ngôn ngữ xử dụng, họ hoàn toàn không
có khái niệm hay ý nghĩ gì về một “Nước Ở Giữa” cả. Trong khi đó, người Việt
nói đến hai chữ Trung Quốc, chắc chắn cái hình ảnh “Nước Ở Giữa” đã thấp thoáng
trong đầu. Xin mọi người để ý đến điều này.
Nếu người đọc vẫn
tìm mọi cách để chống chế, vẫn chưa đồng ý, và chưa hiểu rõ tác dụng của ngôn
ngữ, xin nêu ra một thí dụ để chúng ta cùng nhận xét.
Khi nghe nói đến
các chữ; cô ấy, bà ấy hay mụ ấy, trong đầu người nói và người nghe đều có ba
hình ảnh khác nhau. Một cô gái trẻ đẹp (cô ấy), một người phụ nữ lớn tuổi (bà ấy)
và một người phụ nữ xấu xí, lôì thôi lếch thếch (mụ ấy). Khi nói và nghe chữ
"Trung Quốc" hay Tàu cộng cũng có tác dụng tương tự. Xin mọi người
hãy tự suy nghiệm.
Ngôn ngữ thể hiện
tâm lý là điều ai cũng hiểu và đồng ý. Hy vọng nhiều người Việt sẽ nhận
rõ điều này.
Khi đăng những bản
tin ghe thuyền của Tàu cộng tấn công ngư dân Việt, báo chí Việt cộng chỉ dám
dùng hai chữ tàu lạ. Mọi người đều hiểu tại sao. Ở đây chúng
ta không cần diễn giải thêm. Rõ ràng là ngôn ngữ thể hiện tâm lý của người xử dụng.
Và ai cũng hiểu đó lá cái tâm lý hèn hạ nhu nhược nô lệ của người cộng sản Việt
Nam đối với bọn giặc phương Bắc.
Tương tự như thế,
bất kỳ ai, mở miệng dùng hai chữ Trung Quốc cũng không thoát khỏi tâm lý này,
dù họ có lớn tiếng hô to: “Đả đảo
Trung Quốc xâm lược.” Hãy tự hỏi chính mình, tại
sao mình không mở miệng nói được câu: “Đả đảo Tàu cộng xâm lược.” Chẳng
lẽ mình vẫn còn muốn chứng tỏ cho người khác biết mình là con người có học thức
và lịch sự?
Đã không xóa nổi hai chữ "Trung Quốc" ra khỏi đầu thì khoan
nói đến chuyện chống Việt cộng hay Tàu cộng. Nếu chỉ là danh từ, tại sao không dám gọi là Tàu cộng?
Không nên tiếp tục lừa dối chính mình nữa. Xin suy nghĩ kỹ điều này.
Việt
Nam cộng sản gọi là Việt cộng. Trung Hoa cộng sản gọi là Trung cộng. Đâu có gì là không học thức, không lịch sự ở đây. Mà đối
với bọn giặc Bắc, trong khi họ luôn tìm cách tiêu diệt mình, mà mình cứ mãi lịch
sự với họ thì quả là một tâm lý bệnh hoạn. Ở đây chúng ta không thể dùng chữ
nhu nhược, mà phải gọi là bệnh hoạn. Chúng ta thấy vẫn còn nhiều người Việt
mang nặng cái tâm lý bệnh hoạn này trong đầu.
Những người đảng
viên cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ không bao giờ dám mở miệng nói đến chữ Tàu,
dù là; ông Tàu vĩ đại, bác Tàu kính yêu. Chỉ nghe đến cái âm Tàu họ cũng đã hoảng
sợ đến kinh người. Vì quá kinh sợ họ trở nên tức giận điên cuồng. Đối với họ,
đó là loại ngôn ngữ phạm thượng. Quen sống kiếp nô lệ, họ không thể nào chấp nhận
loại ngôn ngữ phạm thượng này đối với ông chủ phương Bắc được.
Đến hôm nay,
chúng ta đều thấy rõ rằng; nhóm cầm quyền cộng sản Việt Nam chỉ giỏi hèn với giặc,
nhưng luôn ác với dân. Để chứng tỏ mình không hèn với
giặc, như bọn người đang sống kiếp nô lệ này, điều đầu tiên và dễ dàng nhất là
mọi người nên vất bỏ hai chữ Trung Quốc ra khỏi ngôn ngữ của mình. Bảo
là dễ dàng nhưng sẽ có rất nhiều người không làm nổi điều này.
Tùy theo thái độ
tâm lý, mỗi người sẽ tự chọn cho mình một loại ngôn ngữ thích hợp. Người nặng
tinh thần nô lệ và bệnh hoạn sẽ có lý do để bảo vệ và tiếp tục xử dụng hai chữ
Trung Quốc. Người nặng tinh thần tự trọng, hiểu rõ trách nhiệm trong việc giữ
gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ của dân tộc sẽ có lý do để loại bỏ chữ
Trung Quốc và thay vào đó là Tàu.
Tâm lý tức giận sẽ dùng ngôn ngữ phẫn nộ. Tâm lý tự chủ sẽ dùng ngôn ngữ
độc lập. Tâm lý hèn nhược sẽ dùng ngôn ngữ nô lệ. Điều này không ai chối cãi được. Và vì thế, xin mọi
người Việt chúng ta nên loại bỏ hai chữ Trung Quốc để thể hiện tinh thần độc lập,
tự chủ và bất khuất ngay trong ngôn ngữ xử dụng hằng ngày. Hy vọng nhiều người sẽ đồng ý với đề nghị này.
Nhưng đối với người đảng viên cộng sản Việt Nam thì vô phương. Họ đã chọn kiếp
sống tay sai, nô lệ, vô tổ quốc, phi dân tộc từ thuở chào đời. Chúng ta không
mong gì họ thay đổi được.
Để giúp mình và cũng giúp người, mọi người Việt cùng nhau giữ
nước qua ngôn ngữ. Vô cùng quan trọng nhưng lại không hề tốn một giọt
máu. Tại sao chúng ta không chịu làm?
Đây là điều đầu
tiên và căn bản, vô cùng quan trọng, trong tinh thần chống lại bọn giặc phương
Bắc.
Xin nêu ra nơi
đây một bài học lịch sử để mọi người cùng suy nghiệm. Chọn ngôn ngữ để làm quốc
ngữ cho một quốc gia vừa mới khai sinh là điều vô cùng quan trọng trong việc giữ
gìn nền độc lập. Ngay sau khi Hoa Kỳ giành độc lập từ tay đế quốc Anh, người Mỹ
đã nghiên cứu cẩn thận trong việc chọn tiếng Anh hay tiếng Đức dùng làm quốc
ngữ. Họ không chọn tiếng Tây Ban Nha vì lúc bấy giờ, ảnh hưởng của Tây Ban Nha
đã tràn khắp Nam Mỹ và phần đất phía tây Bắc Mỹ. Cuối cùng, do kết quả cuộc bầu
phiếu, tiếng Anh được chọn vì hơn tiếng Đức một lá phiếu.
Nhưng ngay sau
đó, ông Noah Webster đã bỏ ra 20 năm liên tục để thành
lập tiếng Mỹ, như trường hợp tiếng Nam dưới thời nhà Trần.Ngoài
việc sửa đổi cấu trúc văn phạm và ngữ pháp, ông còn thay đổi cả ngữ vựng,
và thành lập cuốn “Tự Điển Di Sản Hoa Kỳ” (American Heritage
Dictionnary) cho dân chúng Mỹ xử dụng. Điều đáng lưu ý, đáng khâm
phục, và đáng để mọi người Việt chúng ta học hỏi, là từ đó và mãi về sau, từ tổng
thống đến thường dân, mọi người Mỹ đồng lòng quyết không dùng tiếng Anh mà chỉ
dùng tiếng Mỹ. Đến hôm nay chúng ta đều nhận biết sự phổ thông của tiếng Mỹ
trên khắp thế giới mà hầu hết người Việt biết tiếng Mỹ đều quen thuộc.
Xin ghi ra nơi
đây vài thí dụ để mọi người cùng nhận thấy tinh thần quyết tâm giữ gìn độc lập
và tự chủ của người dân Hoa Kỳ qua ngôn ngữ:
—-Anh—
— -Mỹ —
colour
color — bỏ bớt giữa
programme program —
bỏ bớt cuối
theatre theater —
đảo chữ
randomise
randomize — đổi chữ
water
closet restroom —
đặt danh từ mới
Hiểu rõ sự quan
trọng của ngôn ngữ đối với nền độc lập của một dân tộc, giặc phương Bắc đã tìm mọi cách hủy diệt chữ
Nam của người Việt ngay từ thời nhà Trần. Chúng gọi một cách nhục mạ khinh bỉ là tiếng
nôm na, hèn mạt để gạt ngưởi Việt biết chữ không thèm dùng đến. Thế mà đến nay vẫn có nhiều người trí thức
học giả miệt mài gọi là chữ nôm. Điều này chẳng khác nào có kẻ
côn đồ bảo trẻ con nên về nhà gọi cha mẹ chúng bằng thằng và nó. Vì ngu khờ kém
suy nghĩ, đứa trẻ liền nghe theo và cứ thế mà gọi.
Hiện
nay, Tàu cộng bắt Việt cộng phải du nhập tiếng Tàu, và bằng mọi cách phải nhét
vào đầu để nô lệ hóa người Việt qua ngôn ngữ. Xin nêu ra vài chữ như: động thái, quan ngại,
bức xúc, tham quan, hộ khẩu, cải tạo, sự cố, hoành tráng, hiện trường, quan chức,
đăng ký, hỗ trợ, đột xuất... và còn nhiều nữa... Vì cùng hệ thống đơn
âm, họ chỉ cần dùng mẫu tự Việt diễn âm Tàu, và bắt mọi người Việt phải
dùng, tức nghe và đọc trước rồi nói sau. Lúc đầu quen tai, quen mắt. Sau quen
miệng. Thế là xong.
“Nếu nói dối đủ lớn và cứ tiếp tục lặp đi lặp lại lời
dối trá của mình,
quần chúng rồi sẽ tin vào lời dối đó”
(Paul Joseph Goebbels – Bộ trưởng Tuyên truyền Đức Quốc xã)
Xin mọi người,
còn nghĩ đến dân tộc và chống cộng, hãy nhớ lại xem mình đã bắt đầu dùng những
từ ngữ này từ lúc nào. Và từ bây giờ trở đi mình có dám loại bỏ ngôn ngữ này và
quyết tâm không dùng nữa hay không.
Tại sao phải loại bỏ những ngôn ngữ này? Nếu hỏi người Mỹ, họ sẽ giải
thích cho chúng ta hiểu lý do tại sao.
Xin thưa thêm. Vì đây là loại ngôn ngữ mà ông Nguyễn Văn Luận,
một người dân Hà Nội bị kẹt lại Miền Bắc từ năm 1954 đã nhận ra ngay là “ngoại ngữ Việt cộng” do Tàu cộng đem sang. Suốt 28
năm, mãi cho đến khi vượt biển tìm tự do và cuối cùng định cư tại Hoa Kỳ, ông
Luận vẫn nhất định không dùng đến loại ngoại ngữ nô lệ và mất nước này. Thế mà
hiện nay vẫn có nhiều người Việt, dù đang sống tại hải ngoại, hăng hái chống
Tàu, chống cộng, nhưng sẵn sàng xử dụng loại ngôn ngữ nô lệ này. Lại có nhiều
người dù không hiểu ý nghĩa nhưng vẫn dùng một cách hàm hồ và sai hoàn toàn ý
nghĩa gốc trong tiếng Tàu.
Thí dụ: chữ đột xuất có nghĩa là sự nổi bật (outstanding) hoàn
toàn không có nghĩa của trạng từ chỉ thời gian như
các chữ bất thình lình hay bất ngờ,
trong tiếng Việt. Thật ra, bọn giặc Bắc đâu cần thắc mắc chuyện
người Việt dùng đúng nghĩa hay sai nghĩa. Cứ nhét được những loại ngôn ngữ này
vào đầu dân Việt là chúng thành công. Một vài kẻ đã không biết mình ngu và dại,
lại còn lớn tiếng biện minh cho hành động bệnh hoạn này. Vua
Quang Trung mà còn sống, chắc chắn ngài sẽ phân thây bọn người mất gốc này để
diệt trừ mầm nô lệ cho dân tộc.
Báo
chí và truyền thông tại Việt Nam cộng sản hiện nay bắt buộc phải dùng loại ngoại
ngữ Việt cộng này. Với kiếp
sống của kẻ tay sai và nô lệ, họ không thể làm khác hơn được. Bởi đây là sách lược nô lệ của Tàu cộng đưa ra và bắt Việt cộng
phải thi hành.
Tuy nhiên, trên
nhiều diễn đàn internet của người Việt hải ngoại hiện nay
chúng ta vẫn thấy đầy dẫy loại ngoại ngữ nô lệ và mất nước này.Về quy định ngôn
từ, nơi nào cũng đưa ra những điều lệ căn bản là; không chấp nhận ngôn ngữ thô
tục, và ngôn ngữ ca tụng Việt cộng; để chứng tỏ đây là nơi của những người có học
thức, lịch sự, và quyết tâm chống cộng.
Nhưng than ôi. Họ
chấp nhận loại ngôn ngữ nô lệ ẩn chứa mầm hủy diệt tinh thần dân tộc của giặc
phương Bắc mà họ không hề bận tâm. Không những thế loại ngôn ngữ này được truyền
bá và phát huy khá mạnh mẽ.
Bởi chúng ta
chưa nhận thức rõ được sự quan trọng của ngôn ngữ đối với sự tồn vong của dân tộc.
Hãy nhìn lại gương của dân chúng Hoa Kỳ trong việc xử dụng tiếng Mỹ để giữ gìn
độc lập, may ra mọi người sẽ hiểu rõ vấn đề vô cùng quan trọng này cho dân tộc
và đất nước.
Là người Việt, hầu hết chúng ta ai cũng đã từng nghe và nói câu:“Tiếng Việt còn, Người
Việt còn.” Nhưng chúng ta quên một điều vô cùng quan trọng
là; tiếng Việt nô lệ, thì người Việt
nô lệ. Và sự nô lệ này sẽ dẫn đến mất gốc và dân tộc
bị hủy dìệt là điều không tránh khỏi.
Mất đất, mất đảo còn có
cơ hội lấy lại được.
Nhưng mất người thì lấy
ai mà đòi lại đất, giành lại biển?
Chống cộng mà không chống nổi ngôn ngữ Việt cộng
trong đầu thì vẫn là tự lừa dối chính mình. Người cộng sản Việt Nam biết chắc chắn họ luôn luôn
thành công trong việc khống chế tư tưởng người dân Việt. Rõ ràng nhất là qua
ngôn ngữ. Xin mọi người hãy nhìn lại ngôn ngữ mình xử dụng để chứng minh điều
này.
Có nhiều người
chống cộng cảm thấy hài lòng qua việc xử dụng những danh từ miệt thị, khinh bỉ
đối với những người cầm đầu cộng đảng Việt Nam hiện tai như: Trọng Lú, Sang
Ngu, Dũng Dốt. Những người này vẫn mãi say sưa, tự thỏa mãn với câu: “Người khôn phải gọi thằng ngu bằng thầy!”
Xin thưa! Nếu
chúng ta khôn hơn họ, thì đã không bị họ khống chế từ cái đầu đến cái miệng suốt
bao năm qua.
Năm 1954, sau
khi Việt cộng chiếm Miền Bắc, thi sĩ Trần
Dần đã bàng hoàng thốt rằng:
“Tôi bước đi
không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa
sa trên nền cờ đỏ.”
Hai câu thơ đã
cho thấy hình ảnh thê lương tang tóc của đất nước dưới ách cai trị của người cộng
sản. Thế nhưng, từ năm 1954, người dân Miền Bắc đã không chịu nhìn thấy điều
này. Và người dân Miền Nam, năm 1975, cũng không muốn nhìn thấy điều này. Như
thế, dù âm thầm không ai hay biết, nhưng số phận của đất nước Việt Nam đã được
quyết định từ lâu.
Tiền bạc là vật
mà mọi người dân, dù không biết chữ, vẫn phải dùng đến hằng ngày. Thế là từ thời kỳ tem phiếu, mãi cho đến hiện
nay, không một tờ giấy bạc nào không có hình của tên bán nước Hồ Chí Minh. Sau
khi chết, chúng vẫn đem cái xác cáo mục rữa trấn ngay "thủ đô" Miền Bắc
và bắt mọi người phải chiêm ngưỡng. Đến khi cướp Miền Nam, chúng liền xóa ngay địa danh Sài Gòn, tên gọi Thủ đô của Việt Nam
Cộng Hòa. Thay vào đó là tên cáo Hồ đã chết. Rồi chúng xây con
đường trên cao nguyên dọc Trường Sơn, xương sống của bản đồ Việt Nam với tên
"đại lộ Hồ Chí Minh". Tất cả mọi việc trên đều nhằm mục đích thực hiện
kế hoạch to lớn và lâu dài. Đó là khống chế tư tưởng toàn thể dân Việt qua những
hình ảnh này. Hãy thử tính xem trong một ngày, hình ảnh của tên cáo
Hồ bán nước đánh vào đầu người dân Việt bao nhiêu lần qua tờ giấy
bạc. Đây là một kỹ thuật trấn áp tư tưởng vô cùng hiệu quả trên bình diện vô thức
mà khoa Tâm Lý Học gọi là khống chế tư tưởng (mind control) vô
cùng tinh xảo và thâm độc.
Xin được nêu ra ở
đây để những người vẫn còn ngây thơ cho rằng Việt cộng là những kẻ ngu ngốc nên
suy nghĩ lại.
Là một người Việt
cộng nằm vùng tại Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, nên lúc bấy giờ ông y tá
Nguyễn Tấn Dũng bắt buộc phải dùng ngôn ngữ của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng ngay
sau khi cộng sản cướp được Miền Nam , chắc chắn ông Dũng và bao nhiêu người
cộng sản nằm vùng khác đã không thèm dùng tiếng Việt của Miền Nam ngày trước.
Năm 2010, trong buổi trả lời trước quốc hội cộng sản, vì lúng túng, thủ tướng cộng
sản họ Nguyễn đã lỡ miệng phát ra hai chữ “bảo
đảm” của
Việt Nam Cộng Hòa. Biết bị hớ, liền ngay sau đó ông ta vội vàng tìm mọi cách để
chữa lại bằng hai chữ “đảm bảo” của Việt cộng cho mọi người ngồi dưới kia cùng
nghe thật rõ. Chỉ bấy nhiêu cũng đủ để dạy cho nhiều người Việt trí thức chống
cộng cần học bài học về sự quan
trọng của ngôn ngữ, cùng thái độ quyết tâm của ông ta khi xử dụng
ngôn ngữ. Có thể lỡ lời nói ra hai chữ bảo đảm. Nhưng chắc chắn ông Dũng không
bao giờ dám lỡ miệng đảo thứ tự để nói nhà nước (trước) và đảng (sau) cả. Đến
đây hy vọng nhiều người sẽ nhận ra sự quan trọng cùng sự quyết liệt của những
người cộng sản trong việc xử dụng ngôn ngữ. Nói một cách khác, nhưng vô cùng thực
tế, họ hiểu rõ quy luật sinh tử là, đối với họ: Dùng Chữ Sai Là Chết.
Khi dùng ngôn ngữ
Việt cộng để chống cộng, chống Tàu, chúng ta có thể nghe họ lớn tiếng cười mỉa
mai khinh bỉ và bảo nhau rằng: “Cứ để
cho bọn người đang sống ở hải ngoại đó chống cộng. Ngôn ngữ, tức cái đầu của
chúng, mà đảng ta đổi tới thay lui chúng chẳng hề hay biết. Thế thì chúng chống
cái chi. Ta vo tròn bóp méo cái đầu của chúng như thế mà chúng chẳng hay
biết. Thì chúng chống được điều gì. Chúng đang sống nơi hải ngoại cách xa ngàn
dặm, nhưng đảng ta nhét vào đầu chúng điều gì cũng được, thì có chi mà lo ngại.
Ha ha ha. Chỉ cần mười năm nữa thì bọn người này sẽ nằm trong các nghĩa địa. Chẳng
có chi để chúng ta phải bận tâm cả.”
Chống Tàu cộng xâm lược, mà không chống nổi ngôn ngữ
nô lệ của chúng đang bám chặt trong đầu, thì chỉ làm trò cười cho bọn tay sai
Việt cộng là thế đấy. Nên
hiểu rằng, Việt cộng không bao giờ lo ngại
chuyện mìn bom súng đạn, chúng chỉ sợ cái đầu của người dân. Mà thể hiện của
cái đầu là qua ngôn ngữ đang xử dụng. Mong mọi người nên suy nghĩ kỹ điều này.
Hãy nhìn bài học
quốc ngữ của người Mỹ, hy vọng, và may ra, có người sẽ hiểu rõ sự quan trọng của
ngôn ngữ trong việc giữ gìn nền độc lập và tinh thần tự chủ của dân tộc.
Xin chuyển đến mọi
người để cùng suy nghiệm và chọn loại ngôn ngữ thích hợp cho chính mình.
Trần Đức
Dũng
Bài đọc thêm: