Hòa
bình rỗng tuếch của Obama trên Biển Đông
Daniel Boone Chua,
Trần Ngọc Cư dịch
Mỹ
không thể loại bỏ chiến tranh khỏi bàn nghị sự (Ảnh: Hải quân Mỹ)
Những tranh chấp lãnh
thổ trên Biển Đông – liên quan Trung cộng, Đài Loan, Việt Nam, Mã Lai, Brunei,
và Phi Luật Tân – đang gây bất ổn cho khu vực. Dù không có đòi hỏi chủ quyền
tại đây, nhưng quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ gắn liền với hậu quả của cuộc
tranh chấp này. Đệ thất Hạm đội của Mỹ đã và đang hoạt động trong vùng này từ
thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời các tranh chấp trên biển có liên quan trực tiếp
tới Phi Luật Tân, một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Trên thực tế, Hoa Kỳ không
phải là một nước chỉ có quyền lợi ngoại biên trong vấn đề Biển Đông; Washington
đóng một vai trò then chốt trong việc quyết định hướng đi của các cuộc tranh
chấp tại đây. Cả các viên chức chính quyền lẫn các học giả đều khẳng định rằng
các nước nhỏ có quyền lợi trong cuộc tranh chấp sẽ phải tùy thuộc vào một cam
kết được cả Trung cộng lẫn Hoa Kỳ môi giới sắp đặt [brokered].
Mặc dù viễn ảnh giải
quyết các tranh chấp Biển Đông tùy thuộc hoàn toàn vào quan hệ Mỹ-Trung, một
thỏa hiệp do Washington và Bắc Kinh dàn dựng có thể gây ra nhiều rắc rối. Như
Bilahari Kausikan, Đại sứ lưu động Singapore, nêu ra trong một bài diễn thuyết
công khai vào tháng Ba 2016 là, những điều Bắc Kinh và
Washington thoả thuận không nhất thiết có khả năng phục vụ quyền lợi của các
quốc gia Đông Nam Á hay Nam Á. Hơn nữa, vùng biển tranh chấp chỉ là một trong
những lãnh vực tranh chấp giữa hai đại cường này. Các nước ASEAN càng ngày càng
lo ngại rằng Chính quyền Obama đã rơi vào chiếc bẫy duy trì hòa bình bằng bất
cứ giá nào. Lối tư duy này không phải là một điều gì mới mẻ. Cựu Ngoại trưởng
Mỹ Henry Kissinger nhận ra sai lầm này trong thời Chiến tranh Lạnh khi Tổng
thống Dwight Eisenhower đi đến kết luận quan hệ Mỹ-Xô đặt cơ sở trên khẩu hiệu
“không có giải pháp nào khác hơn thay thế cho hòa bình.” Bối cảnh ngày nay đã
khác nhưng quan niệm trên vẫn còn nguyên vẹn. Vì chiến tranh
có vẻ không còn là một công cụ chính sách có thể nghĩ đến, chí ít đây là điều
mà Chính quyền Obama tin tưởng, do đó bất cứ một hành vi xâm lược nào mà không
đưa đến chiến tranh đều được Chính quyền này chấp nhận.
Tiếc thay, một tình trạng hòa bình mong manh như thế không những đe dọa quyền
lợi của những đối tác nhỏ bé của Hoa Kỳ mà còn xói mòn uy tín của Mỹ trong khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Khi Hoa Kỳ nhấn mạnh một
cách khập khiễng về nỗ lực tránh chiến tranh và xung đột, một số kịch bản có
thể diễn ra; vài kịch bản đã được khởi động. Một là, thái độ
này của Mỹ khuyến khích Trung cộng thay đổi nguyên trạng của cuộc tranh chấp và
tạo ra một sự đã rồi [a fait accompli] về các đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh.
Vì phản ứng của Hoa Kỳ đối với việc Trung cộng tăng cường cải tạo các đảo trên
Biển Đông chỉ giới hạn trong phạm vi các tuyên bố và những hoạt động tự do hàng
hải tránh khiêu khích [unprovocative
freedom of navigation operations], Trung cộng tiếp tục đẩy các giới hạn xa
hơn được chừng nào hay chừng nấy. Cho đến nay, Washington chưa thể hiện một
điều gì gọi là làm chậm bước tiến của Bắc Kinh trong việc cải tạo các đảo nhân
tạo và khai triển các khí tài quân sự trong vùng biển tranh chấp. Càng ngày
người ta càng thấy rõ hơn khả năng Bắc Kinh sẽ tuyên bố Vùng Nhận diện Phòng
không trên Biển Đông.
Hai là, việc Mỹ muốn
tránh né chiến tranh buộc các nước Đông Nam Á có đòi hỏi chủ quyền phải dựa vào
sức mình là chính và lao vào xu thế chạy đua vũ trang trong khu vực. Việt Nam
và Phi Luật Tân đã bắt đầu cải tiến các lực lượng hải quân của mình. Trong khi
đó, người ta còn thấy các cơ quan hải giám hay cảnh sát biển [của các nước
tranh chấp] nâng cấp trang bị và gia tăng ngân sách. Những số liệu thống kê
được Viện Nghiên cứu Hoà bình Stockholm công bố gần đây cho thấy trong năm 2015
chi tiêu quốc phòng tại châu Á và châu Đại Dương đã tăng 5,4 phần trăm so với
gia tăng toàn cầu là 1 phần trăm. Mức gia tăng này gồm cả chi tiêu quốc phòng
của Trung cộng, là nước đã châm ngòi cho đợt chi tiêu quân sự hào phóng của cả
khu vực. Nếu chiếc ô an ninh của Mỹ không chịu bung ra trong dự kiến có những
đám mây đen vần vũ, các quốc gia Đông Nam Á phải tự củng cố quân đội của mình.
Ba là, các cường quốc ở
ngoài khu vực cảm thấy cần phải can thiệp trước khi Trung cộng quyết đoán các
đòi hỏi chủ quyền của mình thêm nữa. Australia và Nhật Bản, là những nước có
lợi ích chính trị, kinh tế và chiến lược tại Biển Đông, gần đây đã công bố ý
định triển khai một số khí tài quân sự và tham dự các cuộc tập trận với Phi
Luật Tân. Cũng gần đây, Nhật Bản đã tu chính Hiến pháp và tham gia với Hoa Kỳ
và Phi Luật Tân trong cuộc tập trận song phương quan trọng hàng năm, mang tên
“Balikatan”, vào tháng Tư 2016. Sách trắng Quốc phòng Úc, công bố tháng Hai
2016, cho thấy mối quan tâm ngày một gia tăng của nước này về các diễn biến
trên Biển Đông. Khi có thêm nhiều nước dính líu đến cuộc tranh chấp, thì tình
hình càng trở nên phức tạp hơn, thậm chí càng khó đi đến một giải pháp cho vấn
đề Biển Đông.
Điều có ý nghĩa nhất là,
việc Washington thiếu nỗ lực trong vấn đề này có khả năng bào mòn uy tín của
Hoa Kỳ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương một cách vô phương cứu chữa. Mặc dù
sự can dự của Nhật Bản và Úc vào cuộc tranh chấp hàng hải nằm trong quan hệ
đồng minh với Mỹ, nhưng chủ trương đối đầu mới mẻ của họ tại Biển Đông phát
xuất từ sự cận kề với các tranh chấp đang diễn ra tại đây. Nỗi lo sợ rằng Mỹ sẽ
rút ảnh hưởng của mình ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương không phải là một
điều bóng bảy mới mẻ trong tư duy chiến lược của Tokyo và Canberra. Mặc dù Ngũ
Giác Đài từng bác bỏ các báo cáo về những tiếng nói phản biện từ các vị tư lệnh
thuộc Đệ thất Hạm đội, nhưng sự thật hiển nhiên vẫn là Chính
quyền Obama đang thiếu một sách lược Biển Đông. Sự thể Hoa Kỳ vẫn chưa phê
chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển là một vết bẩn khác trong tính khả
tín của Mỹ.
Với dự kiến Trung cộng
vẫn tiếp tục khai triển các khí tài quân sự và phát triển các căn cứ quân sự
trên Biển Đông, cái giá phải trả cho thứ hòa bình rỗng tuếch này sẽ lên rất
cao. Liệu Tổng thống Obama và các cố vấn của ông đã cân nhắc đầy đủ cái giá
phải trả cho việc tránh né chiến tranh của họ chưa? Khi một nền hòa bình bấp
bênh trở nên mong manh đến độ không thể duy trì được nữa và có vẻ sẽ gây ra
nhiều tổn thất cao hơn một cuộc xung đột vũ trang, các nhà làm chính sách tại
Washington không được loại bỏ hành động quân sự như một phương án lựa chọn.
Cảnh báo của Kissinger trong một bài báo đăng trên tạp chí Foreign Affairs năm 1956 rất
đáng ghi nhớ: “Nếu cụm từ ‘không có một
phương án nào khác hơn thay thế cho hòa bình’ trở thành học thuyết được chấp
nhận, tư duy này có thể dẫn đến một tình trạng tê liệt về chính sách [a
paralysis of policy].” Hiện nay, Bắc Kinh có vẻ hiểu rõ lôgic này hơn cả
Washington.
Daniel Boone Chua, National Interest, 18-4-2016
Daniel Wei Boon Chua là
một học giả trong Chương trình Nghiên cứu Quân sự tại Trường Nghiên cứu Quốc tế
S. Rajaratnam (RSIS), thuộc Đại Học Công nghệ Nanyang (NTU), Singapore.