Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu vào những năm
cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo và nhiều người
Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle Calédonie như
Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt trong các viện bảo
tàng.
Bùi
Văn Phú
Mỹ
thuật của người bản xứ Kanak trong Bảo tàng Nouvelle Calédonie. (Ảnh: Bùi Văn
Phú)
Cuối năm ngoái vợ chồng tôi đi Úc dự đám cưới cô
cháu, cùng thăm bạn. Chuyến đi, bay thẳng từ San Francisco đến Sydney, dài 15
giờ đồng hồ. Trên đường về, ghé chơi vài đảo ở nam Thái Bình Dương cho biết đời
sống ở đó và cũng để không phải ngồi trên chuyến bay quá dài.
Ở phi trường Sydney, khi làm thủ tục gửi hành lý và
lấy ghế trên máy bay của hãng Aircalin để đi Nouvelle Calédonie, cô tiếp viên
không rõ việc nhập cảnh vào đảo này cho người mang hộ chiếu Mỹ nên phải hỏi cấp
trên. Tôi đã biết trước là không cần visa, nhưng cô ấy nói cần xem lại cho chắc.
Có lẽ vì ít người mang hộ chiếu Mỹ đến đảo nên cô cần hỏi lại.
Sau khi xác nhận không cần visa, cô hỏi chúng tôi dự
định ở đó bao lâu. Tôi trả lời 4 ngày. Cô nói đây là đảo đẹp, nhưng ở lâu sẽ
chán, vài ngày là vừa đủ. Tôi nghĩ đời sống hải đảo ở đâu chắc cũng thế, như
Hawaii nổi tiếng là “hải đảo thần tiên” của Mỹ, nhưng ở chừng một tuần là thấy
chẳng còn gì vui chơi ngoài biển và cát.
Vào phòng đợi lên máy bay, hầu hết hơn một trăm hành
khách là da trắng, vài người da đen. Mọi người nói tiếng Pháp. Có một anh đang
nói chuyện qua điện thoại bằng tiếng Việt.
Sau gần ba giờ bay, phi cơ hạ cao độ. Nắng chiều chiếu
lên đảo với núi xanh mầu cây lá giữa biển nước cũng trong xanh.
Phi trường Tontouta rất nhỏ, kiến trúc bằng kính và
sắt i-nốc, trông còn mới và rất sạch. Không có chuyến bay khác đến nên lấy hành
lý và qua kiểm soát di trú rất nhanh.
Nhà
thờ Chính tòa Thánh Giuse nhìn từ trung tâm Nouméa. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Nhiều người cùng lên xe buýt để vào Nouméa, thủ đô của
Nouvelle Calédonie. Vừa ra khỏi phi trường, tôi thấy những cây phượng còn đỏ rực
vì đang là mùa hè ở nam bán cầu.
Vào đến thành phố mất hơn một giờ đồng hồ, xe ghé
qua vài khách sạn ở trung tâm, trước khi chạy về khu Anse Vata, nơi có Hilton
và nhiều khách sạn khác dọc bờ biển.
Đêm về khu này nhộn nhịp người qua lại. Đi tìm nơi
ăn tối, gặp quán Hanoi Plage nên chúng tôi ghé ăn thử.
Tôi gọi miến gà. Nhà tôi ăn phở gà. Thêm gỏi gà và một
lon nước ngọt. Phở và miến có chả lụa. Gỏi bắp cải có húng bạc hà và nước mắm.
Hỏi thăm chủ quán là người Việt và biết bà làm chủ nhiều nhà hàng. Khi biết
chúng tôi từ California đến, bà nói thức ăn ở đây không thể ngon bằng bên Mỹ được.
Nhà tôi nói phở có chả là lạ. Bà giải thích đúng ra là bò viên, nhưng tối nay hết
nên thay bằng chả.
Bữa ăn tối đơn giản, phở và miến tô nhỏ, mỗi tô giá
1550 XPF, gỏi gà 1920, lon nước ngọt 650; tổng cộng 5670 XPF, gồm cả 5% thuế
T.S.S. (1 USD = 105 XPF tiền địa phương), tính ra là 54 đô.
Buổi sáng đầu tiên ở Nouméa, từ tầng cao của khách sạn
nhìn ra xa là biển, bên dưới có thông xanh và những cây phượng đang rộ nở hoa
làm tôi nhớ Nha Trang trong một lần ghé thăm. Trời nắng nóng và có gió thoảng.
Cuối tháng 12 mà như mùa hè ở quê cũ.
Là thuộc địa Pháp nên ăn sáng có croissant, paté
chaud, cà-phê và sô-cô-la nóng. Như ở Sài Gòn ngày xưa. Mỗi thứ chừng 3 đô.
Ăn sáng xong chúng tôi xuống trung tâm thành phố. Hỏi
lễ tân tìm cách đi xe buýt, cô nói đang là “big holiday” xe không chạy thường
xuyên. Hôm đó là một ngày thường trong tuần nên tôi tò mò muốn biết dịp lễ gì
mà là “big holiday”, cô nói là “summer”. Thì ra thế. Tiếng Anh ở đây và ở Mỹ có
những khác biệt. Tôi nhớ lại bên Úc cũng gọi kỳ nghỉ hè là “big holiday”, không
nghe dùng từ “vacation”.
Trạm
xe buýt. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Ra trạm xe buýt gặp vài người dân địa phương cùng cặp
vợ chồng trẻ người Nhật đang đứng chờ. Có lẽ du khách Nhật đến đây nhiều, vì ở
phi trường các bảng hướng dẫn có ba thứ tiếng là Pháp, Anh và Nhật. Các tài liệu
du lịch cũng thế.
Vé một chuyến là 210 XPF. Xe chạy dọc theo bờ biển,
có khi leo đồi thấp. Bên đường thỉnh thoảng có phượng đỏ và ít phượng vàng. Đa
số nhà cửa không sang đẹp nhưng cũng không thấy những khu tồi tàn. Hệ thống
chuyên chở công cộng ở đây rất thuận lợi cho việc di chuyển. Với gần chục tuyến
đường đến được nhiều nơi trong thành phố và ngoại thành.
Chừng 30 phút tài xế báo đã đến trung tâm thành phố.
Vừa xuống x
e, thấy một cửa tiệm với bảng hiệu “Mai Linh”, bán tạp hóa và thức
ăn.
Đi vài chục bước thì thật ngạc nhiên khi thấy một tượng
đài ba người, với một phụ nữ đội khăn mỏ quạ là hình ảnh quen thuộc của đàn bà
miền bắc Việt Nam.
Bức tượng mang tên Chân Đăng được dựng vào ngày
17/10/2013. Dưới chân tượng có cây tre và hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng
Pháp: “Ghi nhớ công ơn những người Chân Đăng Việt Nam đã góp phần phát triển nền
kinh tế tại Nouvelle Calédonie và Nouvelle-Hébrides từ cuối thế kỷ mười chín.”
Thấy một phụ nữ gốc Á đang dắt chó đi dạo, tôi hỏi bằng
tiếng mẹ đẻ: “Xin lỗi. Chị là người Việt?” và nghe đáp lại: “Dạ.”
Hỏi Chân Đăng nghĩa là gì thì chị cũng không biết.
Chị ấy gốc Hà Nội, qua đây định cư đã 25 năm. Mẹ chị trước sống ở đây, đã hồi
hương vào những năm 1960 và sau này được tái định cư ở đây. Chị đã có dịp qua California chơi, ghé Los Angeles,
San Francisco. Chị nói ở Nouméa người Việt đông hơn người Hoa.
Gần tượng đài có
một tiệm ăn đặt bảng bên lề đường với các món ăn châu Á trong đó có “nem”.
Tượng
Chân Đăng. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Hình ảnh này bỗng làm tôi nhớ đến thành phố Abidjan
của Côte d’Ivoire ở châu Phi, nơi đầu tiên tôi thấy nem bán ở đó vào đầu thập
niên 1980, mà theo kể lại thì có hai giả thuyết về hành trình đem nem đến châu
Phi. Có thể món ăn này đã theo chân lính viễn chinh Pháp đem về vào những năm
1950, hoặc do một người gốc Việt qua đây định cư sau năm 1975 đem đến.
Nem trên đảo Nouvelle Calédonie không biết có từ bao
giờ, nhưng chắc là do người Bắc Kỳ đem qua, vì nem là cách người bắc gọi chả
giò. Mà người bắc đã có mặt trên hải đảo này cả thế kỷ trước, khi Pháp đưa người
Tonkinoise qua đây làm phu mỏ.
Chúng tôi vào quán ăn thử. Sáu cái nem rán với chút
rau sà-lát và nước mắm, giá 890 XPF. Không ngon vì nhân bên trong toàn củ cải
hay củ sắn, chỉ chút thịt heo.
Đây là khu Á
đông – Quartier Asiatique. Chung quanh thấy nhiều cửa hàng tạp hóa và thức ăn
có bán nem và phở. Một cửa tiệm còn bày hàng chữ “Chúc Mừng Năm Mới” trong tủ
kính phía trước.
Khát nước. Chúng
tôi vào tiệm tạp hóa tìm mua nước. Thấy người Á đông tính tiền, tôi hỏi tiếng
Việt là đúng ngay gặp được người mình. Anh lại nói lúc đầu tưởng tôi là người
Nhật. Chai
nước giá 110 XPF, anh tính bớt còn 105 thôi.
Nem
và phở là những món ăn Việt được nhiều người biết đến ở Nouméa. (Ảnh: Bùi Văn
Phú)
Place des Cocotiers là quảng trường chính của thành
phố, không rộng lắm, là nơi tập trung sinh hoạt dịp lễ lớn. Dịp Giáng sinh buổi
tối ở đây có hòa nhạc và trình diễn đèn mầu.
Dưới bóng dừa, bóng phượng có người ngồi chơi, vui
đùa. Mấy đứa trẻ nô đùa đá bóng. Nơi đây có wifi miễn phí nhưng ít người dùng,
có thể vì iPhone chưa được dùng nhiều ở đây.
Chúng tôi ăn trưa tại quán ở giữa quảng trường. Bánh
mì jambon với phô-mai. Giòn và rất ngon.
Nhìn ra công viên, thấy một người da rất đen ăn bánh
mì. Ông mở chai coca-cola, đổ xuống đất một chút rồi mới đưa lên miệng uống.
Tôi đoán ông đến từ miền tây châu Phi vì đó là phong tục ở Togo, nơi tôi đã có
một thời sống qua và hiểu được đó là cách tỏ lòng nhớ đến tổ tiên.
Từ quán ăn nhìn qua bên kia đường là một tòa nhà có
hàng chữ BUI DUYET thật to.
Hỏi chuyện những người quanh đây, được biết ông Duyệt
gốc Sài Gòn, có cơ sở buôn bán nhiều mặt hàng rất thành công. Đi quanh Nouméa
tôi thấy hai bin-đinh mang tên ông.
Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu
vào những năm cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo
và nhiều người Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle
Calédonie như Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt
trong các viện bảo tàng.
Tác giả Jean VanMai, một người con của Chân Đăng
nhưng không hồi hương vào năm 1960, trong tác phẩm Fils de Chan Dang ông
đã ghi lại lịch sử của người Việt trên đảo và những khó khăn, tranh đấu của phu
mỏ Việt cũng như những yếu tố tác động đến việc chính phủ Pháp đưa họ hồi
hương.
Những người trở về đã chịu nhiều áp lực vì biến động
và hoàn cảnh chính trị thế giới vào giai đoạn đó. Cũng có luận điểm cho rằng cộng
sản đã ảnh hưởng nhiều đến công nhân phu mỏ người Việt ở đây nên họ đã đòi hồi
hương.
Cửa
hàng bán đồ điện tử của người Việt. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Nouvelle Calédonie là nơi Pháp giam giữ tù nhân vào
cuối thế kỷ 19, với nhiều tù chính trị từ Pháp và từ thuộc địa như Algerie,
Đông Dương.
Từ cuối thể kỷ 19 Pháp đã đưa người Việt qua đảo.
Chuyến tàu đầu tiên có 700 người, đa số là tù Côn Đảo.
Từ năm 1891 đến 1939 có tất cả 21.000 người Việt
sang đây làm phu mỏ, theo hợp đồng 5 năm.
Đến đầu thập niên 1960 có chính sách đưa phu mỏ Việt
trở lại Việt Nam, hầu hết là trở lại miền bắc, vì khi được đưa qua đây làm phu,
họ là dân xứ Bắc Kỳ (Tonkin).
Khi ở Úc, biết tôi sẽ đi chơi Tân Thế Giới, một bác
gốc Quảng Ninh đã kể rằng một số người khi hồi hương về Bắc có đem theo của, rồi
dần cũng bị nhà nước lấy hết, kể cả những chiếc đồng hồ đeo tay.
Đến giữa thập niên 1980, Pháp và Việt Nam có thỏa
thuận cho tái định cư ở Nouvelle Calédonie những ai có thân nhân còn ở đây. Nhiều
người hồi hương trước đây, nay có cơ hội trở lại đảo này để sinh sống và được
nhập tịch Pháp.
Những ngày đi chơi Nouméa tôi đã thấy các cửa hàng tạp
hóa, thức ăn với tên Việt như Mai Linh, Man Duong, Hanoi Plage, Along Beach,
Như Ý và gặp được người Việt gốc Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên
Quang.
Chợ chính của thành phố ở gần bến cảng cũng có nhiều
sạp hàng của người Việt bán rau muống, mít, mãng cầu dai.
Trung tâm du khách gần tòa thị chính có quảng cáo hướng
dẫn du lịch của anh Francois Trần.
Một buổi tối ở khách sạn, xem cuốn niên giám điện
thoại thấy ở Nouméa họ Nguyễn có đến hơn trăm danh mục, chiếm hết gần một
trang. Họ Trần 50, Phạm 30, Bùi 22, Hoàng 20, Ngô 4. Những khu vực quanh thủ đô
như Dumbéa cũng có vài chục họ Việt. Xem kỹ từng tên, đa số có tên Pháp, nhưng
vẫn còn những tên thuần Việt như Nguyen Ngoc Duc, Nguyen Minh Hoang, Hoang Thu
Anh, Hoang Trong Thanh v.v…
Vì là thuộc địa nên ở đây có nếp sống Pháp. Nhiều
nơi bán bánh mì jambon và các loại bánh ngọt. Một chiều ở bến cảng nghe ca sĩ
Patricia Ségui hát nhạc Pháp rất dễ thương.
Tem
thư do bưu điện Nouvelle Calédonie phát hành dịp tết âm lịch. (Ảnh: Bùi Văn
Phú)
Một ngày có du thuyền cập bến, du khách tràn ngập
khu này tìm mua đồ kỉ niệm là những chiếc áo mầu sặc sỡ hay đồ thủ công là những
chiếc xe xích lô, xe vespa bằng gỗ mà tôi ngờ đó là hàng sản xuất từ Việt Nam.
Nét văn hóa châu Á còn được biểu hiện qua những bộ tem thư mười hai con giáp do
bưu điện phát hành vào dịp tết âm lịch.
Gần bến cảng có siêu thị Casino như siêu thị ở Mỹ và
trong đó có bán thức ăn Việt như nem làm sẵn, phở gói, bánh tráng, nước mắm, mắm
nêm.
Một buổi chiều chúng tôi ghé mua thịt bò, khoai, đậu
và bơ, bánh mì về làm bíp-tếch ăn tối. Khi đến quầy rượu, định mua một chai
vang thì nơi đây rào lại. Hỏi ra mới biết sau 12 giờ trưa không cho bán rượu,
muốn mua phải chờ sáng hôm sau.
Về khách sạn, hỏi lễ tân và anh chỉ cho một nơi được
phép bán rượu trong giờ cấm, cách khách sạn chừng 30 phút đi bộ. Theo chỉ đường,
chúng tôi đến đó.
Tiệm
tạp hóa và bán thức ăn của người Việt. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Nhưng mới chỉ vài phút sau khi rời khách sạn, thấy
bên đường có một cửa hàng mang tên Việt, ghé vào xem có gì lạ. Thấy chỗ để bia
rượu có vải che, nhưng còn một kệ với rượu vang để mở. Tôi đang chọn rượu thì
được chủ cửa hàng giải thích là giờ này không được bán rượu.
Khi biết chúng tôi là người Việt, bác nói sẽ bán
cho, nhưng phải giấu vào giỏ đeo. Tôi mua một chai, cái mở nút, một lon bia
Number 1, là bia nội địa, tất cả chừng 15 đô.
Chị chủ tiệm, người Tuyên Quang, theo bố mẹ qua đây
định cư từ năm 1992, còn chồng gốc Nam Định. Nghe kể vào những năm 1960 Pháp
đưa người hồi hương mà con cháu không muốn về cũng bị bắt buộc phải về.
Đến cuối thập niên 1980 chính phủ Pháp lại có chính
sách cho trở lại Nouvelle Calédonie định cư nên gia đình chị được người bác bảo
trợ qua đây. Chị kể, lúc trước còn dễ, cho con cái đã có gia đình cũng được đi,
bây giờ chỉ con dưới 18 tuổi mới được đi theo.
Người Việt qua đây chịu khó làm ăn, mở cửa hàng buôn
bán nên đời sống cũng khá. Anh chị trước đây có mấy cửa tiệm, nay đã sang lại
chỉ còn giữ tiệm này. Một người con gái của anh chị đang học thạc sĩ luật bên
Pháp.
Hỏi thăm đời sống, anh cho biết lương giáo viên ở
đây từ 5 đến 7 nghìn đôla một tháng, được coi là cao. Mua nhà có thể trả góp, mỗi
tháng bằng 30% lương, và phải chứng minh được thu nhập vì cơ quan chức năng sợ
có việc rửa tiển của những thành phần làm ăn bất chính.
Người Việt ở Nouméa có đến vài nghìn, trong số chừng
100.000 cư dân. Ở đây có nhà thờ với cha người Việt từ địa phương. Cũng có chùa
nhưng nhà sư từ trong nước qua lo giúp, nay đã về lại nên giờ đang xin một thầy
khác qua.
Sinh hoạt tập trung tại Hội Ái hữu Việt Nam và chính
phủ Việt Nam mới cử một người làm tổng lãnh sự danh dự ở Nouméa. Người Việt ở
đây có liên hệ thân thiết nhất là với hội đồng hương Tân Đảo ở Nam Định.
Trước khi chia tay chúng tôi cám ơn anh chị đã cho
cơ hội được biết về người Việt ở hải đảo này và được có rượu để uống tối nay.
Bảo
tàng Thế chiến thứ Hai. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Những ngày rong chơi ở Nouméa chúng tôi vào thăm Bảo
tàng Nouvelle Calédonie để thấy nét văn hóa truyền thống của dân bản địa Kanak
trải qua nhiều thế kỷ. Từ cách đan rổ rá, rọ bắt cá, cung tên bằng tre, nhà lá
vách đất, cho đến cách làm thuyền buồm để vượt đại dương, đến những ảnh tượng mỹ
thuật bằng gỗ, kim loại.
Nouvelle Calédonie trong những năm Thế chiến Thứ Hai
được Pháp cho Hoa Kỳ dùng làm căn cứ quân sự. Anse Vata đã từng là khu bệnh viện
chữa trị cho binh lính bị thương ở mặt trận Thái Bình Dương.
Lính Mỹ đã đổ bộ lên đây vào ngày 12 tháng 3/1942 và
lúc cao điểm đã có 130.000 lính Mỹ đồn trú trên đảo. Trong thời gian chiến
tranh, hơn một triệu lính Mỹ đã dừng chân tại đây.
Ngày nay ở Nouméa có Đài Tưởng niệm người Mỹ
(American Memorial), có Bảo tàng Thế Chiến Thứ Hai trên đường Paul Doumer,
trong đó ghi lại hoạt động của Hoa Kỳ và đồng minh khi tham chiến, cho đến năm
1946 sau khi Nhật đã đầu hàng.
Nouvelle Calédonie chính thức là thuộc địa của Pháp
từ năm 1853. Rộng 18.000 kilô-mét vuông, với 270.000 dân, đến nay đảo này tuy
được tự trị nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp.
Tuy đã có những phong trào đòi độc lập, nhưng qua
nhiều lần trưng cầu dân ý, đa số cư dân Nouvelle Calédonie vẫn không muốn tách
rời khỏi nước Pháp.
VOA Tiếng Việt