Về chuyện "giải phóng" miền Nam:
"GIẢI PHÓNG":
NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN NAM VIỆT
Ts LÊ HIỂN DƯƠNG
Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy
năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010,
tức là 2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử
cũng được xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn
không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà toán học
Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ
năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm
42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc
AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng
thế.
Riêng
người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm 1975
lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải
phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì phản
cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện
với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after
the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay
rằng “… liberation from what?…” –
Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định
mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người
miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì
“giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…
Còn nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là
sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều
đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ
đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và
không còn sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng và Bác cùng
nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi
được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn bị sự trừng phạt
của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là
mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông
báo vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là
những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa
phương để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi
sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe
lửa để khi đoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá
lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân
dân, với đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi
đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào
đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ
quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi
cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi
nhận trong những vụ “tập kích” đó…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng
chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền
Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái
tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi
được đưa về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm
của thị trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố
trí ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên tư
sản Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là
lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là
lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay
thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng
nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh
nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và
có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy
giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm
cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía
hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh
viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng
thuộc nằm lòng:
“Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi
bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền
để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu
đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng
dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích
thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho
bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực
nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của
hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà…
“Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và
cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng…
những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong
tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với cảnh
côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ
đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù
đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa
ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân
quyền và mất luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng
chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh
nỗi hãi hùng của muôn dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào
lại phải vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải
phóng mặt bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương
tật của nông dân Lê Thị Thanh …
Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ
“trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa
không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải
phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ
lụy đến dường này.
Tiến Sỹ Lê Hiển Dương - Cựu Hiệu Trưởng Đại
Học Đồng Tháp
Đồng Tháp ngày 16 tháng 2 năm 2015
PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TS
LÊ HIỂN DƯƠNG VỀ "GIẢI PHÓNG MIỀN NAM"
Kính chào ông Lê Hiển Dương – Tiến sĩ, Cựu Hiệu Trưởng
Đại Học Đồng Tháp,
Thưa Ông, bài báo ngày đầu năm 2012 vô tình tôi được
đọc là bài “GIẢI PHÓNG” Nỗi kinh hoàng của người dân Nam Việt, bài viết này
là của Ông. Bài được đăng trên Hải ngoại phiếm đàm Online ngày 05/01/2012,
cuối bài viết có ghi trọn vẹn tên tác giả cùng học vị và chức vụ. Học vị cùng
chức vụ và nhất là qua bài viết của ông, cho tôi biết ông đã một thời là cán
bộ giáo dục của nhà nước cộng sản hiện thời Việt Xã Nghĩa, còn tôi cũng xin
vài dòng được nói về mình. Tôi một người tù mà các người cộng sản chiến
thắng, gọi xách mé là sĩ quan Ngụy của 36 năm trước, trên bước đường tù biệt
xứ đã hai lần, tôi đươc hân hạnh đi ngang qua thành phố Vinh của ông. Khi
chúng tôi đọc xong bài của ông viết, tôi biết ông là người như thế nào, những
gì ông suy nghĩ khiến chúng tôi mến ông, và thấy cần phải viết vài dòng xin
được thưa chuyện cùng ông, những dòng chữ đậm là tôi xin phép ông
được ghi lại những gì ông đã viết.
Không giấu gì ông, ban đầu sau khi đọc xong bài ông
viết, tôi định cho nó qua, nhưng câu kết của ông như níu tôi lại, khiến tôi
thấy nên nói chuyện với ông thì quí hơn, vì mấy khi ta gặp được người như
ông. Ông Dương ạ câu kết ông viết Chẳng biết người dân Việt nam từ nay
còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định
mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã
bịa ra từ ngữ “giải phóng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy
đến dường này. Câu này làm tôi thấy chúng ta tuy là kẻ Nam người Bắc,
nhưng vô tình lại chung phận là nạn nhân, nạn nhân của kẻ bợm, chúng sống
bằng sự lừa lọc dối trá, sự trí trá đó khiến biết bao người “sinh bắc tử
nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường
và không bao giờ trở về nữa”.
Đó là phần không may cho dân miền Bắc, còn miền Nam
như ông thấy đó và ông đã viết “là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ mất con, mất
nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do
dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”. Để rồi những
kẻ bợm CS đó chúng đoạt lấy tất cả, những gi của người dân hai miền Nam-Bắc
nước ta, từ cơ bản quyền làm người đến của cải vật chất, chúng dìm đời sống
người dân cả nước xuống tận bùn đen, còn sự tồn vong của đất nước thì đang
trong tình trạng treo chỉ mành. Trong những cái chúng cướp đoạt của đất nước,
có cả 16 tấn vàng là số vàng thuộc tài sản quốc gia, mà chính phủ VNCH để
lại, chúng đã chia chác nhau số vàng này, và cái tận cùng bỉ ổi là chúng lại
tuyên truyền là chính quyền miền nam đã lấy số vàng đó.
Nhưng nay tất cả người dân VN đều biết như ông viết,
kẻ lấy số vàng 16 tấn không ai khác hơn là 16 tên chóp bu bộ chính trị
CSVN “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc
vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16
tấn vàng ròng… nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng
16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi…”, Cám ơn ông
thật nhiều Ông Lê Hiểu Dương ạ, sự thực cuối cùng vẫn là sự thực.
Sau ngày 30 tháng 04 năm 75, trước khi chúng tôi bị
đưa ra miền bắc để lưu đày, các “ông cộng sản” đã nói với chúng tôi về thiên
đường cộng sản xã hội chủ nghĩa miền bắc như sau: Miền Bắc XHCN không có
người nghèo kẻ giàu, không có nhà cao tầng, và cũng không có nhà lá, tất cả
đều nhà gạch giống như nhau, ý nói kiểu nhà cư xá hay chung cư,- Không có kẻ
rách rưới, mà kẻ khác thì dư thừa tơ lụa, tất cả đều bận kaki Nam định thoải
mái. Miền bắc XHCN vật chất thì nhiều vô kể, không thiếu một thứ gì, còn
trong Nam toàn thể dân chúng, và ngay cả trong trại, tất cả mọi người phải
sống trong khó khăn thiếu thốn, đó là do tàn dư của chế độ tư bản Mỹ Ngụy để
lại, rồi đây miền Bắc sẽ chi viện cho miền Nam(?). Nghe nói vậy cũng có nhiều
anh em tù tin, xã hội cộng sản mà, tất cả đều bình đẳng, cái ăn, cái mặc, cái
ở đều như nhau, chủ thuyết của Mác Lê, chả mong muốn xây dựng một nhà nước,
một xã hội theo mô hình như thế là gì (!).
Nhưng cũng như ông nói, ông nhận ra sự thật khi vào
nam,“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này
đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là
lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay
thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng
nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh
nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”.
Thì sự thật phũ phàng cũng đến với chúng tôi, khi
chúng tôi vượt qua cầu Hiền Lương, trên bước đường lưu đày lên mạn ngược, lần
đó qua cầu Hiền Lương là vào khoảng 10 giờ sáng, đây đất Đồng Hới nào thấy
đâu nhà gạch, Quảng Bình quê ta nào thấy đâu giàu đẹp. Cả một vùng xác xơ đều
khắp với những mái tranh vách đất tiêu điều, dọc đường thỉnh thoảng một vài
ngôi nhà xây, đấy là những nhà gạch duy nhất mà chúng tôi thấy, nhìn kiểu
dáng kiến trúc cho thấy chúng đã có từ thời Pháp. Cái nhiều mà chúng tôi thấy
được trên chuyến đi là khẩu hiệu, suốt chuyến đi hai bên đường không biết cơ
man nào là khẩu hiệu, đều là khẩu hiệu màu đỏ máu, chữ vàng, to có nhỏ có,
dài có ngắn có, ca ngợi hết lời tình hữu nghị Việt Hoa, như răng với môi, như
anh với em, tình đồng chí đời đời bền vững. Ngoài ra cũng không ít những cái
suy tôn họ Hồ, họ Mao, Các Mác, Lê Nin, tất cả các chữ dao to búa lớn như vĩ
đại, vô địch, quang vinh.v.v…đều được đem ra dùng tối đa.
Cũng ngay trong lần đầu diện kiến dung nhan thiên
đường cộng sản đó. Xe vừa vào tới Đồng Hới, thì đậu tập trung chờ lịnh bên
đường, tình cờ giờ tan trường, những trẻ học trò tò mò đứng nhìn đoàn xe bít
bùng. Học sinh là mầm non đất nước, tương lai của cả một dân tộc, mà dường
như những đứa trẻ này, thiếu ăn như lủ tù chúng tôi hay sao?, mà nhìn chúng
gầy và xanh quá, quần áo chúng luộm thuộm rách rưới. Vậy mà chúng lại đang
sống trong cái thiên đường XHCN, do đảng cộng sản quang vinh tể trị… cái khăn
quàng màu máu trên cổ chúng, nói thêm một điều nữa, Chúng là cháu ngoan họ
Hồ. Chúng đang học tập và theo gương Bác vĩ đại của chúng, nhưng không hiểu
lý do gì mà nhìn chúng thảm quá, như phường ốm đói. Đấy ông Dương thấy không,
tôi có khác mấy chi ông khi ông đặt chân vào miền Nam như ông nói, “Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua
khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn
rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có
tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”.
Ông Lê Hiển Dương mến, quê ông là Vinh, quê ngoại
tôi cũng là Vinh, nhưng tôi không sống ở đó, tôi chỉ được cái hân hạnh đi
ngang qua thành phố Vinh hai lần, năm 1975 trong lúc chuyển tù từ nam ra bắc.
Và năm 1981 sau khi TQ đánh vùng phía bắc sáu tỉnh biên giới, chúng tôi đựơc
di dần vào trong, chuyến xuôi nam bất đắc dĩ, mà nhà nước cộng sản không muốn
tí nào, tôi biết chắc như thế. Họ muốn chúng tôi phải vùi thân nơi núi rừng
tây bắc họ mới vui, lý do gì thì ông thừa biết phải không ông Dương, những gì
ông nói ra cho thấy ông rất thành thật, vì những gì ông làm cho chúng tôi tại
Vinh. Thì tại các nơi khác người dân nơi ấy cũng làm theo một cách như ông, vì
đó là chính sách chung của Đảng, ông ném đá thì họ cũng ném đá, thậm chí có
người xấn xổ nhổ nước bọt vào chúng tôi. Thoạt đầu thì chúng tôi khó chịu vì
sự lỗ mãng của họ, nhưng khi thấy những nụ cười đểu của bọn cán binh áp tải,
thì chúng tôi nhận ra ngay đấy là những gì người dân bị “make up”, hoàn cảnh
chúng tôi lúc đó, không khác gì cảnh trong những thước phim tài liệu “đấu tố”
cải cách ruộng đất năm nào.
Ông nói “những tháng tiếp theo đó, chúng tôi
được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lũ bọn ngụy quyền ác ôn, bị sự trừng
phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi…
Số là mỗi tuần một lần, chúng tôi được chính quyền
và ban giám hiệu nhà trường thông báo, vào những ngày giờ có những ô tô của
cục quân pháp, chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính
quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương, để đến các trại cải tạo ở mạn ngược.
Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ
số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa, để khi đoàn xe tù đi ngang qua, là hô
hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này,
bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước…Và sau mỗi lần trừng
trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên
dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của
đảng, vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng
có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không
có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…”
Nay đã hơn ba mươi sáu năm, sau ngày oan nghiệt của
vận nước, muốn hay không muốn chúng ta cũng phải thấy, Nam hay Bắc đều là nạn
nhân của bọn cộng sản vong nô, chúng tôi không trách ông đâu Ông Dương ạ. Thứ
nhất vì cái thành thật của ông làm chúng tôi mến, thứ đến là đã có người xin
lỗi chúng tôi thay cho ông rồi, những người làm việc tạ lỗi với chúng tôi là
những người nghèo bán hàng rong tại nhà ga thành phố Vinh của ông. Chúng tôi
cảm được cái ray rứt trong lòng ông qua câu ông viết “Kết thúc 4 năm đại
học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng
tôi cũng tốt nghiệp đại học…”.Nên chúng tôi xin mạn phép gởi đến ông một đoạn
ký sau đây để ông đọc, mà thấy được rằng cái thật luôn tỏa sáng và làm rung
động lòng người, cũng tựa như cái thật của ông đã làm cho chúng tôi mến.
XUÔI NAM….
…Ðoàn tàu vẫn tiếp tục lăn bánh, hướng về nam với
rộn rã của tiếng bánh xe gõ nhịp trên đường ray, tấm bảng cắm bên đường cho
thấy ga kế tiếp là nhà ga Vinh. Thành phố Vinh là quê ngoại của Mẹ tôi, thuở
còn nhỏ Mẹ theo Ngoại nhiều lần về Vinh. Nhận xét về quê của mẹ sau bao nhiêu
năm nhìn lại, trong lần ra bắc thăm nuôi tôi, Mẹ bùi ngùi nói không có gì
thay đổi, tất cả vẫn như xưa, có chăng là mọi vật cũ đi theo thời gian mà
thôi. Còn tôi tuy biết Vinh là quê ngoại, nhưng trong tôi, sau năm 75 trong
chuyến lưu đày ra xứ bắc, tôi cũng đã qua đây vào một đêm, nhưng tình cảm lần
đầu tiên đó, không phải thứ tình cảm bồi hồi nao nao, khi đi qua chốn mà mình
biết đó là quê mẹ.
VIỆT NHÂN
|