Sống và sáng tác quanh cột mốc 1975
BBC Tiếng Việt trích đăng các bài đã
đăng trên trang nhà của chúng tôi về một số gương mặt văn nghệ sỹ thuộc thế
hệ Việt Nam Cộng Hòa.
Võ Phiến (1925-2015):
"Nói với BBC ngày 29/9/2015, nhà phê bình Đặng Tiến từ Pháp nhận xét tùy bút của
Võ Phiến rất đa dạng.
“Tùy bút là thể
loại mà Võ Phiến thành công nhất, để lại nhiều tác phẩm và tư liệu hay nhất.”
Image
copyright
Phát biểu từ Úc, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, người viết nhiều về ông Võ Phiến, nói thế hệ cầm
bút sau này vẫn còn học được ở Võ Phiến.
“Ông viết nhiều
đề tài nhưng lúc nào phong cách của ông luôn là Võ Phiến. Nhà văn chỉ thành
công khi anh có phong cách riêng, để khi đọc một câu, một đoạn, độc giả biết
ngay là của anh.”
Từ sau 1975 đến nay, hầu hết tác phẩm của Võ Phiến vẫn
chưa được xuất bản tại Việt Nam.
Vài năm trước, tại Việt Nam xuất hiện hai cuốn tạp
văn của Võ Phiến nhưng in với bút danh Tràng Thiên.
Ông Quốc giải thích: “Những bài bình luận chính trị của ông trước
1975 chứng tỏ ông rất am hiểu chủ nghĩa cộng sản. Ông phê phán nó rất sắc sảo,
mới mẻ so với thời đại bấy giờ.”
“Vì vậy ông bị miền Bắc xem là nhà văn ‘biệt kích, phản động’,
toàn bộ sách của ông bị tịch thu sau 1975.”
Từ trong nước, nhà phê bình, giáo sư Trần Đình Sử cho biết tại Việt Nam hiện
nay, đánh giá về Võ Phiến “rất phân tán”.
“Chủ yếu là do
nhìn vào khuynh hướng chính trị của tác giả.”
“Tuy
vậy, nhà văn nào cũng có khuynh hướng chính trị của họ. Nếu đặt nó sang bên để
nhìn khía cạnh sáng tạo văn học, tôi nghĩ Võ Phiến là người viết tùy bút lớn.”
Giáo sư Trần Đình Sử đánh giá rất cao các bài tùy
bút của Võ Phiến.
“Trước đây ta
cho rằng Nguyễn Tuân viết tùy bút số một, nhưng còn Võ Phiến. Nhiều khi tôi trộm
nghĩ tùy bút Võ Phiến không hề thua kém, thậm chí có khi hơn.”
Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc nói “ân oán chính trị
sẽ ngày càng phôi phai”. (Toàn bài đã đăng tại
đây).
Thanh Tâm Tuyền
(1936-2006):
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (Dzư Văn Tâm) qua đời tại
bang Minesota, Hoa Kỳ, sáng thứ Ba, ngày 22 tháng Ba, 2006, hưởng thọ 70 tuổi.
Di cư vào Nam năm 1955, ông được xem là có đóng góp
khai phá hàng đầu trong phong trào Thơ Tự Do không vần.
Khoảng năm 1957, ông Thanh Tâm Tuyền chủ trương tạp
chí Sáng Tạo cùng với Mai Thảo, Nguyên Sa, Vũ Khắc Khoan, Tô Thùy Yên, Doãn Quốc
Sỹ, Quách Thoại, Lý Hoàng Phong, Lữ Hồ, Trần Thanh Hiệp, Thanh Nam... và các họa
sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Tạ Tỵ, Duy Thanh.
Năm 1960, tạp chí Sáng Tạo bộ mới ra đời, cũng do
Thanh Tâm Tuyền thực hiện cùng các bạn hữu như Cung Trầm Tưởng, Thạch Chương,
Dương Nghiễm Mậu.
Theo tiểu sử, năm 1962, Thanh Tâm Tuyền bi động
viên, vào học ở Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi về dạy Đại Học Chính Trị Đà
Lạt và phụ trách Nguyệt San Quốc Phòng.
Image copyright
THANH TAM TUYEN Image caption Thanh Tâm Tuyền trên bìa tạp chí Văn
Sau năm 1975, ông bị bắt giam và ở trại cải tạo nhiều
năm.
Với cách viết thơ Tự Do, Thanh Tâm Tuyền được xem là
một trong những người đưa vào sự cách tân trong thơ Việt Nam vào lúc ảnh hưởng
của thơ Tiền chiến còn rất mạnh.
Trong một bài viết về ông của Bùi Vĩnh Phúc, tác giả nói Thanh Tâm Tuyền
đã "đẩy thơ tự do của ông, thời ấy,
vào những con đường hết sức mới lạ."
Một số tác phẩm đã xuất bản của Thanh Tâm Tuyền:
Tôi Không Còn Cô Ðộc (thơ, 1955); Liên, Ðêm, Mặt Trời Tìm Thấy (thơ, 1964);
Khuôn Mặt (truyện, 1964); Bếp Lửa (truyện); Dọc Ðường (truyện, 1966); Ba Chị Em
(truyện, 1967); Cát Lầy (truyện, 1967); Mù Khơi (truyện, 1970); Tiếng Ðộng
(truyện, 1970); Tạp Ghi (1970); Thơ Ở Ðâu Xa (thơ, Hoa Kỳ). Toàn bài đã
đăng tại
đây.
Nguyễn Mộng Giác
(1940-2012):
Đặng
Tiến viết
năm 2012 để tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác và thể loại tiểu thuyết
của ông:
"Trường thiên tiểu thuyết là thuật ngữ Nguyễn Mộng Giác đã
dùng để gọi thể loại mà ông sử dụng khi viết Mùa biển động: một tiểu
thuyết dài nhiều lần hơn mức trung bình, chia thành nhiều tập, đưa ra một tuyến
nhiều nhân vật, sống trong một giai đoạn lịch sử dài, và những hoàn cảnh khác
nhau.
Image copyright
Có
thể nói Nguyễn Mộng Giác là "chuyên gia" về thể loại này. Ông còn là
tác giả bộ tiểu thuyết lịch sử, lấy thời kỳ Tây Sơn làm bối cảnh, bộ truyện
Sông Côn Mùa Lũ, bốn cuốn, dài khoảng 2000 trang, viết tại Sài Gòn từ tháng
5-1978 đến tháng 3- 1981, tu chính tại Hoa Kỳ 1990, và nhà An Tiêm của Thanh Tuệ
xuất bản, cùng năm, tại Cachan- Paris và California.
Sách được tái bản trong nước, tôi không nhớ xuất xứ, vì tôi có một bộ
nhưng đã gửi tặng…tác giả! Sách, vì ấn hành trong nước, đã gây tai tiếng và phiền
hà cho người viết tại Mỹ.
Như
vậy, mấy chữ trường thiên tiểu thuyết đã mất nghĩa đầu tiên của nó: trước kia,
nó chỉ là truyện dài, khác với trung thiên tiểu thuyết là truyện vừa, và đoản
thiên tiểu thuyết là truyện ngắn. Từ ngày báo Phong Hóa, năm 1932, đưa ra từ
truyện ngắn, thì dần dần người ta chỉ còn dùng hai chữ truyện dài, truyện ngắn.
Cũng cần thêm rằng, hai chữ truyện ngắn mượn của người Anh, dịch từ short
story, chớ người Pháp và người Trung Hoa, thầy ta lúc ấy, không có khái niệm
truyện ngắn, hiểu theo quan niệm bây giờ...
...Tiểu
thuyết xưa nay vẫn là niềm an ủi của quần hùng chiến bại, là tiếng kèn bi thảm
của hiệp sĩ Roland từ đèo Roncevaux đáp lại lời kêu cứu thất thanh của Quan
Công khi thất thủ Kinh Châu, là tâm sự của Từ Hải, chết rồi còn đứng giữa trận
tiền để đợi chàng Julien Sorel rụng đầu bên máy chém.
Tiểu
thuyết, nơi hẹn hò của những Hạng Võ khi biệt Ngu Cơ. Ngược lại lịch sử là triều
đình của những người chiến thắng, của Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Câu Tiễn, Trần
Thủ Độ, Đặng Trần Thường, tiểu thuyết là lối về của người chiến bại, những Kinh
Kha, Ngũ Tử Tư hay Ngô Thời Nhậm. Trong đám tàn quân rã ngũ đó, có cả nhân vật
Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác – và có lẽ có cả Nguyễn Mộng Giác.
Nguyễn Mộng Giác sinh năm
1940 tại Bình Định.Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1963. Dạy học tại Huế,
Quy Nhơn và làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo Dục, Sài Gòn. Bắt đầu
viết văn năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức.
Vượt biển tị nạn năm 1981 qua Nam Dương, định cư tại Hoa Kỳ cuối năm 1982. Cộng
tác với các báo Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật
Chủ bút tạp chí Văn Học, California, Hoa Kỳ, từ 1986 đến tháng 8/2004
Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, ở một chân
trời khác, thì lật ngược quy luật: các nhân vật chính và chính diện – con người
mới – sau khi chiếm đoạt lịch sử thì chế ngự luôn cả nghệ thuật; họ làm anh
hùng hai lần, chỉ với một mũi tên; họ xe duyên với Thúy Vân rồi ép duyên cả
Thúy Kiều, họ có cái vẻ vang luộm thuộm lẫn cái hạnh phúc lúng túng của những
người đàn ông hai vợ.
Ngày nay, mấy chữ tiểu thuyết trường thiên nghe nó
xa xôi quá. Cứ gọi là bộ truyện Cửa biển, Mùa biển động, Sông Côn mùa lũ, nghe
gần gũi hơn, và đúng hơn. Vì khái niệm tiểu thuyết, du nhập từ phương Tây, từ
thời kỳ này sang thời đại khác, đã nhiều lần biến chất, và hiện nay là một văn
loại đang tự hủy hay băng hoại trước nhưng thể loại khác và phương tiện truyền
thông mới.
Cái còn lại là cốt lõi, là phần "truyện",
hiểu theo nghĩa nôm na: truyện Tam Quốc, truyện Thạch Sanh. Khi mọi người đều
nói truyện Mùa Biển Động, thì Nguyễn Mộng Giác có quyền sung sướng."
Hoàng Anh Tuấn
(1932-2006):
Đỗ Văn Trọn viết trên
trang BBC Tiếng Việt:
"Hoàng Anh Tuấn sinh ngày 7-5-1932 tại Hà Nội.
Ngoài làm thơ, viết văn, viết kịch với những vở kịch như: Ly Nước Lọc, Hà Nội
48, ông còn là đạo diễn điện ảnh với những phim: Ngàn Năm Mây Bay, Xa Lộ Không
Đèn.
Năm 1949 ông du học bên Pháp và lập gia đình tại đó,
vợ ông là bà Ngô Thị Liên.
Hai người có với nhau sáu người con là: Hoàng Hôn Thắm,
Hoàng Ánh Thép, Hoàng Thu Thuyền, Hoàng Hương Thao, Hoàng Mạc Tiên, và cô gái
út là Hoàng Thái Trang kết duyên cùng anh Trần Văn Học, con trai của cố thi sĩ
Nguyên Sa.
Thời gian sau này ông sống chung với bà Khương Thị
Phương Trâm.
Suốt thời gian ông bị bệnh bà Trâm là người cận kề
chăm sóc ông.
Thơ Hoàng Anh Tuấn
Hà
nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc
Mấy
chục năm, xa đến mấy ngàn năm
Giã
từ em – mười bảy tuổi – một lần
Thu
rất mỏng, mưa hững hờ đẫm lá
Hà
nội yêu, áo lụa ngà óng ả
Thoáng khăn san nũng nịu với
heo may
Hai ngón tay nhón một trái ô
mai
Chiếc răng khểnh xinh nụ cười
cam thảo
Năm 1958 thi sĩ
Hoàng Anh Tuấn về Việt Nam cộng tác với các tạp chí văn nghệ, cùng nhiều tuần
báo và nhật báo ở Sàigòn.
Ông là một trong
những thi sĩ được cố nhà văn Mai Thảo yêu mến nhất. Trước đó, mặc dù ông chưa
có một thi phẩm nào ấn hành nhưng thơ của ông rất được mọi người yêu mến và
nhìn nhận ở ông là một tài thơ lớn.
Với Hoàng Anh Tuấn
lúc nào cũng là bạn hữu. Tính ông thích bông đùa. Người lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi
hơn ông cũng xưng hô với nhau là 'tao-mày'.
Nữ tài tử Kiều
Chinh hay gọi đùa ông là đạo diễn 'trẻ mãi không già'. Thi sĩ Du Tử Lê gọi ông
là 'Châu Bá Thông'. Còn tôi, thân mến gọi anh là 'Hoàng Công Tử'.
Hoàng Anh Tuấn
là một trường hợp vô cùng đặc biệt. Chưa có tác phẩm nhưng lại vô cùng nổi tiếng.
Người ta biết
nhiều đến ông qua bản nhạc: 'Mưa Sàigòn, Mưa Hà Nội'
viết chung với cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương trên một căn gác ở Sài Gòn.
Những năm gần
đây, nhạc sĩ Phan Nguyên Anh phổ nhạc bài thơ 'Yêu Em Hà Nội' của ông được ca
sĩ Như Mai trình bày rất xuất sắc.
Năm 1965 ông làm
quản đốc đài phát thanh Đà Lạt cho đến năm 1975.
Năm 1979 thì ông
được qua Pháp. Năm 1981 ông định cư tại Mỹ..."
Nguyễn Ánh 9 (1940-2016):
Hoàng Nguyên Vũ
viết về 'Nhân chứng âm nhạc Sài Gòn':
"...Sau sự
kiện tháng 4/1975, ông không đi nước ngoài mà ở lại với Sài Gòn, cũng là một
hình thức “quyết liệt nghe theo cảm xúc của mình” như thế.
Sau này, ông có tâm sự, ông muốn ở lại để thử thách
cảm xúc của mình có bị mất đi một cách dễ dàng với mọi đổi thay hay không. Và
trong dòng người đi, ông lại muốn mình ở lại. Vì ông thuộc về Sài Gòn, lớn lên
với Sài Gòn, cuồng yêu với Sài Gòn.
Ở lại với công việc của người chơi nhạc ở một đoàn
văn công khi ấy, chẳng bao lâu, vì mưu sinh, người nhạc sĩ, nhạc công này tạm
xa cây đàn để làm một công việc không liên quan: nhân viên soát vé tại xa cảng
miền Tây trong 2 năm.
Tôi đã từng ái ngại hỏi ông, rằng con người thuộc về
âm nhạc, những ngón tay nhỏ nhắn dạo phím một đời thế, thì ông làm việc soát vé
như thế nào, ông nói: “Nhà chú còn bỏ để
mà đi thì việc soát vé đâu có gì con. Hơn nữa, những nghệ sĩ khi qua Mỹ cũng
làm những việc phổ thông, thì mình ở đây, cũng làm việc phổ thông. Như nhau
thôi mà.”
Ông cho rằng, ông đã ở lại
và nếm trải đủ cảm xúc của mình với Sài Gòn, đủ cảm xúc của mọi kiếp người như
ngoài phố, để hiểu Sài Gòn qua những trải nghiệm suốt cuộc đời.
Và ông lại về chỗ của ông, là cây dương cầm. Ông thuộc
về nơi đó...
...Và hôm nay, người ngồi đó với cây đàn bao nhiêu
năm, đã thành người thiên cổ.
Ừ thì, sinh lão bệnh tử, vòng luân hồi tự nhiên ấy
ai cũng phải trải qua. Nhưng tiếc nuối thực sự cho một nhân chứng âm nhạc, là cảm
xúc của tôi lúc này.
Lẽ ra, ông nên ngồi đó thêm nhiều năm nữa, để người
đời vẫn nghe tiếng đàn ông. Và, một số những câu chuyện, những giai thoại về
làng nhạc Sài Gòn năm xưa, khi mà những ca khúc cũ đã được biểu diễn trở lại một
cách mạnh mẽ ở Việt Nam, cần nhân chứng xác tín một số giai thoại.
Và tôi thực sự tiếc nuối cho một nhân cách đẹp thực sự của làng nhạc, một người có đời sống lặng lẽ, tận
hiến cho những điều tốt đẹp trong số ít những người như thế giữa đời, đã
không ở lại với đời lâu hơn."
Phạm Duy (1921-2013):
Tiến sỹ Eric Henry, ĐH North Carolina, cựu binh lục
quân Mỹ (Củ Chi - Xuân Lộc - Quảng Trị) trả lời phỏng
vấn về Phạm Duy:
"Tôi thấy
rằng Phạm Duy là "đại vương" của nhạc phổ thông Việt Nam.
Image copyright BBC WORLD SERVICE Image caption John
Steinbeck và Phạm Duy
Không có một nhà sáng tác nào khác có thể nói là đa dạng, sâu sắc,
và đầy sức tưởng tượng bằng ông.
Nhưng
tôi nói thế nhất định không có nghĩa là tôi muốn bác bỏ những thành tựu của các
người soạn nhạc khác. Trong giới nhạc phổ thông Việt Nam, có rất nhiều nhân vật
mà ta chỉ thể nói là "vĩ đại" đến tột độ.
Đối với con người Phạm Duy, thì tôi thấy là ông không những là nhạc
sỹ, mà là một vị tư tưởng gia nữa, và rất quan tâm đến tương lai và số mệnh của
người Việt Nam.
Điều
đó có thể thấy rõ khi đọc bốn quyển Hồi Ký của ông.
Tôi
đã được cái may mắn làm quen với nhiều người "không phàm," nhưng chưa
hề gặp một ngưởi nào thông minh hơn, hoặc phức tạp hơn, nhạc sỹ Phạm Duy.
Nếp
sống của ông đã bận rộn vô cũng và ông lúc nào cũng phải chuyên tâm về nghề
nghiệp của mình—tuy vậy ông luôn luôn đối xử với tôi một cách tử tế, đẹp đẽ
không thể tả được.
Tôi
không khó mà thấy tại sao những người gọi ông bằng "bố" là nhiều như
thế.
Ông Phạm Duy được cho là chỉ muốn trung thành với văn hóa dân tộc
chứ không phải chính quyền.
Image
copyright PD
...Việc
dịch Hồi Ký đã giúp tôi hiểu là: suốt đời ông, Phạm
Duy đã rất quyết tâm không công nhận là người Việt Nam có một thứ chia lìa nào
cả về chính trị, tư tưởng, nếp sống.
Phần đông người khác cảm thế là mình có bổn phận ủng hộ phe nọ phe
kia, nhưng Phạm Duy từ chối làm như thế, và trái lại tiếp tục đứng ở trung
gian.
Thái
độ đó đã khiến nhiều người đâm ra hoài nghi đối với ông.
Họ
đều tin tưởng là bổn phận của mỗi con người là có một thứ 'lập trường' chính trị.
Họ
đều tin tưởng là 'thiếu lập trường' giống như không có nguyên tắc ăn ở nào cả.
Nhưng
đối với Phạm Duy, trên đời này không có gì đáng ghét hơn 'lập trường'.
Theo
ông, hai chữ "yêu nước" chỉ thể mang một ý nghĩa thôi; đó là 'trung
thành với văn hóa, ngôn ngữ, và cảnh vật của nước mình', tôi thấy là cách suy
nghĩ đó rất là có lý..."
Dương Nghiễm Mậu
(1936-2016):
Tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh tại làng Mậu Hòa,
Ðan Phượng, phủ Hoài Ðức, Hà Ðông. Ông di cư vào Nam năm 1954, là nhà văn,
phóng viên quân đội VNCH và làm họa sỹ sơn mài để mưu sinh sau 1975.
Image copyright Image caption Ảnh của Lý Đợi chụp Dương Nghiễm Mậu
Nhà thơ, blogger Trần Tiến Dũng viết trên Facebook 03/08/2016:
"Tôi
không có câu chuyện gì để kể về anh, chưa tặng anh tập thơ nào cũng như anh
chưa từng muốn để lại trong tôi vài câu chuyện văn và nghiệp văn chương của
anh.
Những
gì tôi biết về anh đều qua việc đọc các tác phẩm đã in của anh.
Dương Nghiễm Mậu di cư
vào Nam năm 1954. Từ năm 1957, ông bắt đầu viết nhiều đoản văn, truyện ngắn,
truyện dài. Năm 1962, ông chủ trương tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng
thời viết cho các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ, Tia Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao
Ðiểm, Chính Văn, Sóng Thần, Giữ Thơm Quê Mẹ…Ngoài ra, ông còn chủ trương nhà xuất
bản Văn Xã.Báo Người Việt, California
Tôi không muốn đi quá vị trí của một độc giả thế hệ
văn nghệ sau biến cố 1975; tôi muốn gìn giữ trạng thái cảm xúc trước một nhà
văn lớn đáng kính trọng, rồi thu mình lại giữ ranh giới giữa độc giả và nhà
văn.
Có lần đến thăm anh khi anh vừa qua khỏi cơn đột quỵ
nhẹ.
Tôi nghe anh Trịnh Cung hỏi:
'Sao
toa không viết hồi ký?'
Anh cười; đó là lần đầu tôi thấy từ đôi mắt thấu thị
của nhà văn ánh nhìn thanh thản.
Anh nói: 'Lâu nay moa là thợ tranh, hồi ký cái gì!'
...Hôm nay, tôi ngồi đục mưa trong quán cà phê, nhận
tin nhắn cho biết anh mất đêm qua.
Sài Gòn mấy ngày nay mưa mù trời, mù người. Bỗng nhiên
hình ảnh của anh hiển hiện khiến tôi nhớ bài hài cú của thiền sư Ba-Sô.
"Lữ khách!
Xin gọi tôi là thế
Cơn mưa thu này."