Nhân ngày kỷ niệm Đệ nhất VNCH 26 tháng Mười, viết đôi dòng tưởng nhớ công đức tiền nhân, về một thời Miền Nam tự do, no ấm, tương đối thanh bình với một nền cộng hòa non trẻ xây dựng trên nền tảng Dân Tộc – Nhân bản, hướng về một xã hội Việt Nam công bình, nhân ái, phát triển và thịnh vượng.
Trời vào thu, tháng mười, bâng khuâng nhớ nghĩ về những
ngày tháng tuổi thanh xuân, hăm hở học hành, xây dựng tương lai.
Ngày 26 tháng 10 năm 1956, chàng trai tuổi mười tám,
đứng trên xe kiệu hoa, mừng ngày thành lập Đệ nhất Việt Nam cộng hòa, vung mạnh
tay chém rắn ba đầu Phong – Thực – Cộng.
Nhớ ngày học lớp nhứt trường tỉnh, một bữa chánh chủ
tỉnh Thủ Dầu Một Bonami (?) ghé thăm lớp học, bắt lỗi thầy Nguyễn Văn Kia giảng
ngữ pháp tiếng Tây sai. Mặc dầu thầy tranh cải đỏ mặt, tía tai, nó vẫn cậy quyền
nạt nộ.
Cho nên khi đậu xong tú tài mới xin thi vào Học viện
Quốc gia Hành chánh Saigon, ý muốn tham dự vào nền hành chánh công quyền trong
tinh thần dân chủ dưới nền pháp chế cộng hòa, vì công bằng, bình đẳng, không cậy
quyền áp chế người thấp cổ, bé miệng.
Đầu đề bài thi tuyển về nghị luận thật đơn giản với
một câu ngắn gọn:
Tổng thống Việt Nam cộng hòa nói: “ Học đến tận nơi, hỏi đến tận chốn, hiểu thật
thông suốt, hành thật chu đáo “. Gã học trò nhà quê đầu óc giản dị, cứ đem
những điều cơ bản về thuyết tri hành hợp nhất của Vương Dương Minh mà viết.
Trong ba giờ thi, chỉ viết được bốn năm trang rồi tịt. Vậy mà rốt rồi cũng đậu
được vào học viện nổi tiếng Đông Nam Á thời ấy.
Chương trình học tập thời ấy thiệt là nặng. Tuy rằng
học về khoa quản trị hành chánh công quyền Âu Mỹ, thầy dạy, trò học vẫn trên
tinh thần truyền thống Á Đông. Thay vì nói, cai trị là tiên liệu, thầy Tôn Thất
Trạch giảng “ tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu “. Thay vì nói phục vụ công chúng, thầy
giảng thiệt lâu về phục vụ công ích, công thiện.
Năm thứ nhất học lý thuyết. Qua năm thứ hai có những
buổi đi khảo sát các chương trình “ Phát triển Cộng đồng.”
Để chống lại chủ thuyết cộng sản triệt
tiêu quyền tư hữu, VNCH chủ trương Hữu sản hóa đại chúng.
Đầu tiên là chương trình hữu
sản hóa tài xế xe Taxi. Ở Saigon hồi đó, chủ cho thuê loại xe taxi
Renault 4 nhỏ như con bọ hung. Chánh phủ cho nhập cảng loại xe du lịch kiểu mới
Dauphine Alpha mới tinh, bán trả góp cho tài xế lái taxi.
Trọng đại hơn là sách lược
Quốc gia “ Người cày có ruộng “
hữu sản hóa giới nông dân. Chánh phủ truất hữu ruộng của điền chủ trả bồi thường
bằng công khố phiếu, bán cho mỗi hộ nông dân ba mẫu trả góp. Về sau thời Đệ nhị
VNCH nhận thấy như vậy chậm chạp không theo kịp tình hình biến chuyển mau lẹ
nên cấp miển phí thay vì bán trả góp.
Về các chương trình phát
triển cộng đồng, ngoài Miền Trung có Hợp Tác Xã Sịa, tỉnh Thừa Thiên nổi
tiếng với nhà máy xay lúa lớn, hiện đại phục vụ xay xát cho nông dân cả vùng Quận
Phong Điền.
Khu Trù Mật Vị
Thanh – Hỏa Lựu, Cần Thơ nức tiếng thời ấy là biểu tượng cho chương trình phát
triển nông thôn.
Cộng sản thường rêu rao: quân dân như cá nước nhằm
xu mị lợi dụng dân tiếp tế, che chở cho du kích vc ẩn núp quấy phá. Để cô lập bọn
chúng VNCH tiến hành sách lược “ Ấp chiến lược “.
Đệ nhất VNCH nổi tiếng Đông Nam Á về chính sách chống du kích nầy. Vì vậy mà cọng
sản Bắc Việt phải xẻ dọc Trường Sơn đưa bộ đội vào Nam chiến đấu trực tiếp.
Từ năm 1955 đến 1959 là những năm Miền
Nam ổn định và phát triển mạnh mẽ. Hệ thống giáo dục mở rộng trên nền tảng Nhân
bản – Dân tộc – Khai phóng vừa vun bồi truyền thống dân tộc vừa phát triển kiến
thức khoa học, kỹ thuật.
Đến cuối năm 1960, tình hình bỗng nhiên đột biến. Đầu
tiên là một nhóm nhân sĩ thường được kêu là nhóm Caravelle ( tên một nhà hàng lớn
trên đường Catinat ) ra tuyên cáo đòi cải tổ chánh phủ.
Đêm 10 rạng 11 tháng 11 năm 1960, một lực lượng binh
chủng nhảy dù tấn công bót Catinat tức là trụ sở Tổng nha Công an. Một tiểu
đoàn tấn công thẳng vào Dinh Độc Lập tức Phủ Tổng thống. Tình hình vô cùng nguy
ngập: Cầu Bình Lợi bị một đại đội nhảy dù của Trung úy Đào Văn Lượng phá sập một
nhịp để ngăn chặn sư đoàn 5 về giải cứu. Ở Phú Lâm, một đại đội dù thiết lập
nút chặn để ngăn chặn lực lượng thiết giáp từ Quân khu 5 Cần Thơ về cứu viện.
Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã mưu trí liên lạc
với các đảng phái chủ mưu đão chánh hứa hẹn sẽ hội họp để thảo luận về việc
thành lập chánh phủ Liên hiệp Đoàn kết Quốc gia. Trong khi ấy, Đại đội Liên
binh phòng vệ dinh Tổng thống đã hết đạn, giá súng, đưa Tổng thống vào chỗ ẩn
trú chờ lực lượng dù vào tiếp thu dinh Độc Lập. Bỗng nhiên lực lượng dù ngưng tấn
công và án binh bất động. Đó là do mấy người làm chánh trị cơ hội mắc kế hoãn
binh của Ngô Tổng thống nên ra lịnh ngưng bắn.
Hừng sáng ngáy 11/11/1960, đoàn xe thiết giáp từ
Quân khu 5, Cần Thơ kéo về giải cứu bị một Đại dội dù ngăn chặn ở Phú Lâm. May
đâu viên Trung úy Đại đội trưởng mới nhậu nhẹt với Thiếu tá Trần Cửu Thiên, Tỉnh
trưởng Cần Thơ trong buổi lễ khao quân mấy bửa trước nên giải tỏa hàng rào chặn
cho vị nầy thông qua. Đoàn thiết giáp thừa thế vượt qua nút chặn, tiến vào giải
vây dinh Độc Lập.
Cả tiểu đoàn nhảy dù của Đại úy Trần Văn Hai lẫn đám
thanh niên, sinh viên do các đảng phái xách động biểu tình trước dinh Tổng thống
đều bị thiết giáp đẩy lui và rút chạy.
Về sau xảy ra câu chuyện về khí phách của những nhân
vật đảng phái đứng đàng sau vụ đảo chánh bất thành: Khi bị bắt vào vào Nha An
ninh Quân đội, BS. Phan Quang Đ. Thủ lãnh Đại Việt khóc lóc tỉ tê. Thiếu tá
Nguyễn Bạch Ngọc, ủy viên Chánh phủ Tòa án Quân sự Mặt trận Vùng 3 sau nầy, khi
ấy là tùy viên hầu cận Tổng thống Ngô Đình Diệm thuật lại thái độ của tổng thống
về cái chết của lãnh tụ Quốc dân đảng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: Khi được tin
Nhất Linh tự tử, tổng thống thật buồn phiền, than thở, làm sao mà khổ thân làm
vậy! Chỉ chịu khó ít bửa là mọi việc được giải quyết, làm sao mà phải tự vẫn!
Và suốt mấy hôm, tổng thống còn tỏ vẻ phiền muộn.
Nội vụ chỉ diễn ra trong một
đêm, hậu quả tác động vào vận nước thật lớn lao: Từ ngày ấy về sau, uy thế VNCH
suy yếu không bao giờ phục hồi lại được!
Nhân khi nội bộ tranh chấp, giặc cộng thừa cơ nổi dậy:
Phát “ Đồng Khởi Bến Tre ” định chiếm tỉnh lỵ Trúc Giang ra mắt cái tổ chức bù
nhìn việt gian gọi là Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. May nhờ Thiếu tá Phạm
Ngọc Thảo, Tỉnh trưởng Kiến Hòa, vốn gốc kháng chiến Bến Tre, mưu trí tổ chức
phản nội tuyến, bẻ gãy đồng khởi của “ chị ba Định, “ tư lịnh phó cái gọi là lực
lượng quân sự GPMN, đánh cho đồng khởi te tua không còn manh giáp.
Việc nầy vừa yên, việc khác kế tiếp: Dù đồng khởi thất
bại, tháng 12 năm 1960, vc vẫn cho ra mắt Mặt trận GPMN ở Tân Biên, Tây Ninh, từ
đó mở rộng chiến tranh đánh phá Miền Nam. Mở đầu là trận đánh úp hậu cứ sư đoàn
13 ở Trảng Sụp, Tây Ninh vào dịp Tết 1961.
Tôi có duyên nợ với Khu Trù Mật Vị Thanh – Hỏa Lựu.
Năm 1961, khi đi thực tập ở Cần Thơ, thỉnh thoảng được tháp tùng Thiếu tá tỉnh
trưởng Trần Cửu Thiên đi thăm khu vực nầy. Sau một năm làm việc tại Phủ ĐUTUTB,
tháng 4, 1963 được bổ nhiệm Trưởng ty Nội An kiêm Đặc trách Ấp Chiến Lược Tỉnh
Tân Lập Chương Thiện mà tỉnh lỵ là Khu Trù Mật Vị Thanh ngày trước.
Ba năm về trước, Khu trù mật Vị Thanh chỉ có một nhà
lồng chợ nhỏ tương đương với ngôi chợ của một quận lỵ trung bình. Dọc theo bờ
kinh Xà No chỉ có một dãy phố trệt. Giờ đây khu chợ đã có thêm mấy dãy phố lầu,
xem ra cũng có phần thị tứ như một tỉnh lẻ, mặc dầu là giữa đồng ruộng mênh mông,
sát cạnh rừng U Minh vc như rươi.
Tôi nói về nhiệm vụ Ty Nội An là nhằm góp thêm chút
ít ý kiến về cái gọi là “ Pháp Nạn 1963
“ dẫn tới sự sụp đổ thảm thương của nền Đệ Nhất VNCH. Phòng quan trọng của Ty Nội
An là Phòng Chánh trị Sự vụ. Nơi đó tập trung các chỉ thị về an ninh do trung
ương đưa xuống và các báo cáo về an ninh do các cơ quan an ninh và các Quận
trong tỉnh báo cáo về. Nghĩa là cơ quan phổ biến các chỉ thị của trung ương để
thi hành và tổng hợp tình hình an ninh trong tỉnh để báo cáo về Bộ Nội vụ. Do
đó, trưởng ty Nội An biết rõ tình hình của Phật giáo đồ ở địa phương. Về các huấn
thị của chánh phủ, không có mật lịnh nào về đàn áp Phật giáo. Trái lại là nhiều
huấn thị liên tiếp lệnh cho tỉnh trưởng giải thích cho các giới tôn giáo về lập
trường của chánh phủ trên căn bản tuyên cáo giữa Ủy ban liên bộ của chánh phủ
và Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo.
Cho nên câu chuyện pháp nạn nếu
có, chỉ xãy ra ở Sài gòn và Huế do mưu đồ chánh trị của Mỹ và cộng sản dàn dựng
qua trung gian của nhóm Ấn Quang chớ chẳng phải pháp nạn Phật giáo gì hết trơn.
Vì vậy mà khi cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963 xãy
ra, quân chính ở cái tỉnh lẻ kế bên rừng U Minh ngơ ngác không biết vì sao sự
thể lại xãy ra như vậy!
Cũng nói cho rõ, bọn việt cọng đâu có giỏi giang gì,
trong khi các đơn vị quân đội được lịnh phe đảo chánh án binh bất động, tỉnh lỵ
Chương Thiện hầu như bỏ ngỏ, đến nỗi tỉnh trưởng phải đem hết Shotgun Ấp chiến
lược và đạn dược ra phát cho công chức tự tổ chức phòng thủ cơ quan và Ty Nội
An tổ chức một đoàn tuần tiểu bảo vệ tỉnh lỵ. Vậy mà đám địa phương quân vc
trong rừng U Minh sát bên không làm ăn gì được.
Ngày nay, mọi sự đã sáng tỏ,
những oan khuất của Vị Đệ nhất Tổng thống VNCH đã được bạch hóa.
Cũng xin thêm một đoạn khi nói về Đệ nhất VNCH chỉ bắt
đầu từ ngày ban hành Hiến pháp ngày 26 tháng 10 năm 1956 xem ra không được đầy
đủ.
Có lẽ nên nhấn mạnh về ngày 7 tháng 7 năm 1954 mà
sau nầy thường ghi nhớ là ngày Song Thất tức là ngày Thủ tướng Toàn quyền Ngô
Đình Diệm trình diện nội các, chính thức chấp chánh trong tình hình hầu như tuyệt
vọng:
Ngày 20 tháng 7 Hiệp ước Genève chia đôi
Đất nước.
90 ngày kế tiếp chánh phủ tân nhiệm phải
tiếp nhận hơn 900 ngàn đồng bào Miền Bắc lìa bỏ mồ mả tổ tiên trốn chạy cộng sản
vào Nam tìm Tự do.
Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội
Quốc Gia bất tuân lịnh Thủ tướng.
Các giáo phái Cao – Hòa – Bình rục rịch khởi loạn.
Pháp ngầm gây khó khăn, ám trợ Bình Xuyên gây loạn ở
Thủ Đô Sài Gòn.
Người Mỹ thấy vậy cũng toan tính rút lại sự yểm trợ
chánh phủ Ngô Đình Diệm.
Chỉ đến khi, Thủ tướng và
nhóm thân cận, bằng quyết tâm và mưu trí, lật ngược được thế cờ thì Pháp mới chịu
buông tay và Mỹ mới tích cực yểm trợ.
Nhờ vậy, chánh phủ toàn quyền Ngô Đình Diệm mới tiến
hành được cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23 tháng 10 năm
1955, thiết đặt bước đầu tiên cho việc xây dựng
nền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
Cũng ghi thêm ra đây một chi tiết về sự huyên truyền
về cái gọi là gia đình trị và kinh tài cần lao.
Gần đây, tình cờ được đọc bài ký sự của Giáo sư Lê Tấn
Lộc thuật lại cuộc đối đáp của Cố vấn Ngô Đình Nhu với hai sinh viên thiên cộng
về hai vấn đề kể trên trước cuộc tiếp tân ở Viện Pháp Việt ( Institut Franco –
Vietnamien ) Paris:
“ May mắn thay, lòng tin tưởng vào khả năng đối đáp
của vị Cố vấn Tổng Thống VNCH trước những câu hỏi hóc búa của hai sinh viên
“yêu nước” - yêu XHCN! - trong khuôn viên Institut được đền bù xứng đáng:
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên yêu nước thứ nhứt hỏi. Xin ông vui lòng xác nhận hay phủ nhận chuyện ông cho chuyển ngân bất hợp pháp hai tỷ đô-la sang một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Có phải ông định dùng số tiền nầy kinh tài để củng cố chế độ “gia đình trị” do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ xướng chăng?
Có tiếng vỗ tay lét đét từ phía “cò mồi” do các phần tử “yêu nước” gài.
Ông Cố vấn chờ tiếng vỗ tay chấm dứt, điềm tĩnh trả lời:
-Có! Chúng tôi có một ngân khoản ở Thụy Sĩ. Nhiều hơn con số anh đưa ra. Tôi không tiết lộ con số chính xác vì nó liên quan tới An Ninh Quốc Phòng. Đó là một ngân quỹ bí mật. Muốn sử dụng phải hội đủ 5 nhóm mật mã của 5 vị trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mà tôi là một thành viên. Có lẽ anh ở ngoại quốc quá lâu, nên không theo dõi hiện trạng đất nước. Người Mỹ đang áp lực chúng tôi theo đường lối chính trị của họ. Chúng tôi không muốn hoàn toàn lệ thuộc vào họ, đánh mất chủ quyền quốc gia. Nên quỹ bí mật nầy nhằm đảm bảo sự độc lập của chúng tôi trong việc điều hành quốc sự… Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng điều anh thắc mắc…
Cử tọa không vỗ tay rầm rộ, nhưng gật gù tán thưởng. Sinh viên “yêu nước” bẽn lẽn rời khuôn viên Institut.
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên “yêu nước” thứ hai sừng sỏ “chất vấn” tiếp. Ông vẫn chưa trả lời dứt khoát Tổng Thống Ngô Đình Diệm có áp dụng chế độ “gia đình trị” tại miền Nam không?
Lại có tiếng vỗ tay lét đét!
-Như ông bạn anh vừa hỏi tôi, tôi nghĩ rằng anh cũng đã xa quê hương rất lâu. Tôi xin tóm lược hiện tình đất nước từ ngày Ngô Tổng Thống về chấp chánh đến nay, để đặt câu hỏi ngược lại với anh:
Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm, về nước năm 1954 khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục các giáo phái có thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh, nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?
Sinh viên “yêu nước” thứ hai âm thầm lủi mất.”
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên yêu nước thứ nhứt hỏi. Xin ông vui lòng xác nhận hay phủ nhận chuyện ông cho chuyển ngân bất hợp pháp hai tỷ đô-la sang một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Có phải ông định dùng số tiền nầy kinh tài để củng cố chế độ “gia đình trị” do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ xướng chăng?
Có tiếng vỗ tay lét đét từ phía “cò mồi” do các phần tử “yêu nước” gài.
Ông Cố vấn chờ tiếng vỗ tay chấm dứt, điềm tĩnh trả lời:
-Có! Chúng tôi có một ngân khoản ở Thụy Sĩ. Nhiều hơn con số anh đưa ra. Tôi không tiết lộ con số chính xác vì nó liên quan tới An Ninh Quốc Phòng. Đó là một ngân quỹ bí mật. Muốn sử dụng phải hội đủ 5 nhóm mật mã của 5 vị trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mà tôi là một thành viên. Có lẽ anh ở ngoại quốc quá lâu, nên không theo dõi hiện trạng đất nước. Người Mỹ đang áp lực chúng tôi theo đường lối chính trị của họ. Chúng tôi không muốn hoàn toàn lệ thuộc vào họ, đánh mất chủ quyền quốc gia. Nên quỹ bí mật nầy nhằm đảm bảo sự độc lập của chúng tôi trong việc điều hành quốc sự… Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng điều anh thắc mắc…
Cử tọa không vỗ tay rầm rộ, nhưng gật gù tán thưởng. Sinh viên “yêu nước” bẽn lẽn rời khuôn viên Institut.
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên “yêu nước” thứ hai sừng sỏ “chất vấn” tiếp. Ông vẫn chưa trả lời dứt khoát Tổng Thống Ngô Đình Diệm có áp dụng chế độ “gia đình trị” tại miền Nam không?
Lại có tiếng vỗ tay lét đét!
-Như ông bạn anh vừa hỏi tôi, tôi nghĩ rằng anh cũng đã xa quê hương rất lâu. Tôi xin tóm lược hiện tình đất nước từ ngày Ngô Tổng Thống về chấp chánh đến nay, để đặt câu hỏi ngược lại với anh:
Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm, về nước năm 1954 khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục các giáo phái có thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh, nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?
Sinh viên “yêu nước” thứ hai âm thầm lủi mất.”
Vậy đó, tư cách của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào
đệ Ngô Đình Nhu đáng mặt sĩ phu Việt Nam yêu nước là như vậy đó!
Nhân ngày kỷ niệm Đệ nhất VNCH 26 tháng
Mười, viết đôi dòng tưởng nhớ công đức tiền nhân, về một thời Miền Nam tự do,
no ấm, tương đối thanh bình với một nền cộng hòa non trẻ xây dựng trên nền tảng
Dân Tộc – Nhân bản, hướng về một xã hội Việt Nam công bình, nhân ái, phát triển
và thịnh vượng.
Nguyễn Nhơn
( Một môn đệ Quốc gia Hành chánh
theo truyền thống Học – Hiểu – Hành )