“…một quốc gia đã xóa sạch hoàn toàn quá khứ của mình
và sau đó tái tạo lại như thế – thì có thể tin cậy được hay không? Tại một quốc
gia, hoặc một dân tộc, hay một nền văn minh, cái gì gây phiền toái nhiều đến nỗi
lại vẫn không thoải mái sâu đậm với lịch sử của mình?”
Những kẻ thao túng ký ức của Trung Hoa lục địa
Ian Johnson
Phan Văn
Song dịch
Nhà
cầm quyền của đất nước này không những bưng bít lịch sử mà còn tái tạo lại nó để
phục vụ hiện tại. Họ biết rằng, trong một nước cộng sản, sự thay đổi thường bắt
đầu khi quá khứ bị thách thức
Lần đầu tiên khi
tôi đến Trung Hoa lục địa (Hoa Lục) vào năm 1984, các bạn học nước ngoài của
tôi và tôi ở Đại học Bắc Kinh thường chơi một trò chơi với một cuốn sách hướng
dẫn cũ. Đó là cuốn Nagel’s Encyclopaedia Guide: China (Sách hướng dẫn bách khoa
của Nagel: Trung Hoa lục địa), được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1968 tại Thụy
Sĩ và nêu các mô tả về các địa điểm văn hóa quan trọng được các nhà ngoại giao
và học giả Pháp đến viếng. Chìa khóa cho chúng tôi là họ đã thu thập thông tin
trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, tức là chỉ ngay trước khi Mao tung
ra Cách mạng Văn hóa phá hủy hàng chục ngàn nơi thờ phượng và địa điểm lịch sử
trên toàn Hoa Lục. Chúng tôi tìm một nơi ở Bắc Kinh và đạp xe đến để xem còn lại
những gì.
Tôi nhớ chuyến
đi tìm Ngũ Tháp Tự, một ngôi chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 15 và gồm có năm
tháp nhỏ trên một nền đá khổng lồ. Quyển Nagel nói là hầu hết đã bị phá hủy
trong bạo loạn hồi cuối thế kỷ 20, và đầu thế kỷ 19, nhưng năm tháp nhỏ vẫn còn
ở đó. Trên bản đồ Bắc Kinh thập niên 1980 không thấy có nó, nhưng cuốn Nagel
kích thích chúng tôi. Ngôi chùa đó có còn không?
Chúng tôi đạp xe
tới đường Bạch Thạch Kiều (Baishiqiao/白石桥) và cố chồng bản đồ “Pekin” cũ của Nagel lên bản đồ của
một Bắc Kinh cạn kiệt sau Cách mạng Văn hóa. Cuối cùng chúng tôi đã phải dừng lại
và hỏi thăm. Sau nhiều cố gắng không kết quả, chúng tôi được dẫn qua cổng một
nhà máy và vào đền thờ nằm khuất ở phía sau. Tất cả những gì còn lại là nền đá
lớn, bên trên là 5 tháp đá. Ngói đã rơi ra khỏi mái nhà, và bia đá có khắc chữ
và hoa văn bị vỡ bể nằm trên mặt đất. Cỏ dại mọc khắp nơi. Dù vậy, chúng tôi bước
lên nền đá với một cảm giác kỳ lạ: ở đây có một cái gì đó đã biến mất khỏi bản
đồ hiện nay nhưng vẫn tồn tại. Trong một công trình kiến trúc, chúng tôi có câu
chuyện về tính vĩ đại văn hóa của Hoa Lục, về xâm lược nước ngoài, về tự hủy diệt
văn hóa và cũng có câu chuyện về sự sống sót. Ở đây, nhờ cuốn sách hướng dẫn lạ
mà chúng tôi có được lịch sử Hoa Lục một cách cô đọng – quá khứ cùng hiện tại.
Quan sát Hoa Lục
đôi khi đòi hỏi một ống kính như ống kính của Nagel. Đi bộ trên đường phố ở các
thành phố của Hoa Lục, lái xe trên đường quê và đi viếng các trung tâm hấp dẫn
du khách có thể bị mất phương hướng. Một mặt, chúng ta biết đây là một đất nước
mà một nền văn minh phong phú từng tồn tại hàng nghìn năm, tuy nhiên chúng ta lại
bị choáng ngợp bởi một cảm giác mất gốc. Các thành phố của Hoa Lục trông không
có vẻ cổ xưa. Ở nhiều thành phố cũng có các địa điểm văn hóa và những bọc nhỏ cổ
xưa nhưng nằm giữa một biển bê tông. Khi chúng ta bắt gặp quá khứ dưới dạng một
ngôi đền cổ hay một lối đi hẹp, chỉ một chút điều tra sẽ cho thấy phần lớn là
được tái tạo. Nếu bây giờ bạn quay trở lại chùa Ngũ Tháp, bạn sẽ thấy một ngôi
chùa hoàn toàn tân trang, không một viên gạch hoặc ngói không đúng chỗ. Nhà máy
đã bị kéo đổ và thay bằng một công viên, một bức tường, và một điểm bán vé.
Chúng ta có thể đứng đúng ngay vị trí của cái đó gì cổ xưa nhưng chất lịch sử
đã bị loãng đi đến mức như thể nó đã biến mất.
Điều này nói cho
chúng ta biết gì về một đất nước? Người lạc quan sẽ có cảm giác của sự năng động
– ở đây, cuối cùng, là một đất nước đang vực dậy đi tới trong khi phần còn lại
của thế giới trì trệ hoặc chậm rãi tiến về phía trước. Điều này luôn được nói với
sự ngạc nhiên và sợ hãi. Đỉnh cao của thời đại kỳ lạ này xuất hiện ngay trước
khi Thế vận hội năm 2008, khi truyền thông phương Tây tự va vấp cố tuôn ra những
lời khen ngợi dạt dào nhất cho sự trỗi dậy / chuyển đổi / trẻ hóa (chọn từ sáo
của bạn) của Hoa Lục. Điển hình là một nhà phê bình kiến trúc của New York
Times, ông nói như mê sảng khi đến Bắc Kinh vào năm 2008 về “cảm giác không thể tránh được rằng bạn đang
đi qua một cánh cổng đến một thế giới khác, một thế giới mà sự quyết tâm thay đổi
đã bỏ các nước phương Tây ở lại trong đám bụi mù” và kết luận rằng “người ta tự
hỏi không biết bao giờ phương tây mới bắt kịp”.
Những cảm xúc
khác mơ hồ hơn. Cảm giác cùn mằn nhất mà tôi nếm trải là: một quốc gia đã xóa sạch hoàn toàn quá khứ của mình và sau
đó tái tạo lại như thế – thì có thể tin cậy được hay không? Tại một quốc gia,
hoặc một dân tộc, hay một nền văn minh, cái gì gây phiền toái nhiều đến nỗi lại
vẫn không thoải mái sâu đậm với lịch sử của mình? Lịch sử được tán dương
ở Hoa Lục. Người dân thường sẽ cho bạn biết mỗi khi có cơ hội rằng họ có
5 000 năm văn hóa: wuqiannian de venhua (ngũ thiên niên
đích văn hoá). Còn đối với chính phủ, đó là mốc chuẩn cho tính chính đáng
(legitimacy) trong hiện tại. Nhưng nó cũng là con quái thú đang ẩn trong bóng tối.
Thật
khó để nói quá vai trò của lịch sử trong xã hội Hoa Lục do một đảng cộng sản điều
khiển. Chủ nghĩa cộng
sản tự nó được dựa trên thuyết tất yếu lịch sử: một trong những luận điểm của
Marx là thế giới đang vận động không thể tránh khỏi về phía chủ nghĩa cộng sản,
một lập luận mà những người xây dựng chế độ như Lenin và Mao đã sử dụng để biện
minh cho việc đi lên nắm quyền bằng bạo lực. Ở Hoa Lục, chủ nghĩa Mác được xếp
lên trên nhiều ý tưởng cũ hơn về vai trò của lịch sử. Mỗi triều đại kế tiếp đã
viết lịch sử của triều đại trước nó, và hệ tư tưởng chính trị chiếm ưu thế –
cái mà hiện được gọi chung là Nho giáo – được dựa trên khái niệm vốn lý tưởng
cho việc cai trị phải được tìm thấy trong quá khứ, với những vị vua đạo đức mô
phỏng chúng. Thành quả là quan trọng nhưng chủ yếu như là bằng chứng về sự phán
xét của lịch sử.
Điều đó có nghĩa
là lịch sử được kềm giữ tốt nhất với dây cương thật chặt.
Ngay sau khi lên nắm quyền làm tổng bí thư đảng Cộng sản vào năm 2012,
nhà lãnh đạo Hoa Lục Tập Cận Bình tái nhấn mạnh quan điểm này trong một bài
phát biểu quan trọng về lịch sử được công bố trên Nhân dân nhật báo , tờ báo
chính thức của đảng. Tập Cận Bình là con của một quan chức đảng hàng đầu góp phần
sáng lập chế độ, nhưng bị Mao thất sủng, và phải chịu đày đoạ trong Cách mạng
Văn hóa. Một số người nghĩ rằng Tập Cận Bình có thể có một cái nhìn phê phán
hơn đối với thời đại Mao, nhưng trong bài phát biểu nêu trên, ông nói rằng
không nên sử dụng 30 năm cải cách bắt đầu dưới thời Đặng Tiểu Bình trong những
năm cuối thập niên 1970 để “phủ nhận” 30 năm đầu của chế độ cộng sản dưới thời
Mao.
Chùa Ngũ Tháp ở Bắc Kinh là một phế tích trong những
năm 1980, bây giờ đã được làm mới lại. Ảnh: Alamy
Lý do không nói
ra cho việc Tập Cận Bình không sẵn sàng từ khước thời đại Mao là Mao không chỉ
là Stalin của Hoa Lục. Liên Xô đã có thể loại bỏ Stalin vì còn có Lenin như cha
đẻ của nó. Đối với đảng Cộng sản Hoa Lục, Mao là Stalin và Lenin kết hợp lại; tấn
công Mao và thời đại của ông là tấn công nền tảng của nhà nước Cộng sản. Năm
năm sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc với cái chết của Mao Trạch Đông vào năm
1976, đảng đã đưa ra một tuyên bố lên án thời đại đó và vai trò của Mao lúc đó,
nhưng tuyên bố đó cũng đã kết thúc thảo luận thêm về Mao qua việc khẳng định rằng
“những đóng góp của ông cho cách mạng Hoa
Lục vượt trội hơn những sai lầm của ông. Công của ông là chính và lỗi của ông
là phụ.”
Nhưng trên một
bình diện rộng hơn, lịch sử đặc biệt nhạy cảm vì sự
thay đổi trong một quốc gia cộng sản thường bắt đầu với việc lịch sử bị thách
thức. Chẳng hạn, trong thập niên 1980 các nhóm như hội nghiên cứu lịch sử
Tưởng niệm đã biến dạng thành một phong trào xã hội làm suy yếu Liên Xô qua việc
phơi bày quá khứ bất ổn của nó. Hoa Lục hiện nay mạnh hơn Liên Xô thời Gorbachev,
nhưng ký ức vẫn ngoài khả năng nắm giữ của chính phủ, đặt ra thách thức cho một
chế độ mà lịch sử làm nên tính chính đáng. Mặc dù theo định nghĩa, lịch sử là
quá khứ, nhưng nó cũng là hiện tại và tương lai của Hoa Lục.
Lịch sử bị
bưng bít?
Các thành phố Hoa
Lục là thành phố ma. Không phải theo nghĩa lãng phí về bất động sản – nhiều khu
phức hợp rộng lớn xây dang dở, bỏ không, và đổ nát – dù thật sự có một số như vậy.
Thay vì thế các trung tâm đô thị của đất nước này được xây dựng trên một quá khứ
bị xoá mất mà chỉ đôi khi mới len lẫn vào hiện tại qua những cái tên lạ tai của
đường phố, công viên, và điểm dừng tàu điện ngầm.
Tại Bắc Kinh,
cũng như hàng chục thành phố trên khắp đất nước, đường phố rất thường được đặt
tên theo mối quan hệ của chúng với những thứ không còn tồn tại, những địa điểm
hồn ma, chẳng hạn như cổng thành, đền, vòm tưởng niệm, và các sự kiện lịch sử bị
lãng quên. Chẳng hạn, tại thủ đô, Bộ Ngoại giao nằm trên Chiêu Dương môn ngoại
(Chaoyangmenwai/朝阳门外), tức là con đường ngoài cổng Chiêu Dương. Chỉ một
vài trăm mét về phía tây, đường này đổi tên thành Chiêu Dương môn nội
(Chaoyangmennei/朝阳门内), tức là con đường bên trong cổng Chiêu Dương. Ở giữa
là đường Nhị Hoàn (二环: đường
Vòng tròn thứ hai). Tên các con đường này chỉ có ý nghĩa nếu bạn nhận ra rằng
con đường vòng tròn này được xây dựng trên vị trí các bức tường thành, có một lối
đi vào ngay ở đó, Chiêu Dương môn (Chaoyangmen/朝阳门), tức cổng Chiêu Dương. Tường thành đã trở thành một
xa lộ và cổng vào trở thành ngã chuyển đổi ra vào (interchange). Không có gì
khác ngoài những cái tên đường còn tồn tại trong khu phố này nhắc nhở bạn về
các kiến trúc hồn ma đó.
Luôn luôn có
cách cho một người hoài nghi giảm nhẹ một hiện tượng bằng cách nói, nhưng gượm
đã, rằng điều đó cũng tồn tại ở nơi khác. Ta có thể nói rằng tất cả các thành
phố đều có các khu phố, các con đường được đặt theo tên những con người hoặc
các sự kiện từ xa xưa không ai còn nhớ tới trừ những kẻ mọt sách. Điều này tất
nhiên là đúng, nhưng ở Hoa Lục việc chuyển dịch về văn hóa lớn hơn, và các rào
cản đối với ký ức cao hơn. Hoa Lục quả có bách khoa toàn thư trực tuyến, cũng
như những cuốn sách giải thích lịch sử của Bắc Kinh. Một số thậm chí rất đắt
hàng, chẳng hạn như công trình mở đường Thành Ký (城记:Sách ghi chép về thành phố) của phóng viên Vương Quân
(Wang Jun/王军) thuộc Tân
Hoa Xã. Nhưng các sách này đều bị biên tập mạnh bạo, và đòi hỏi phải có kiến thức
văn hóa mà hầu hết người Hoa Lục ngày nay đều thiếu. Quay trở lại những năm
1990, vẫn có thể tìm thấy các nhà hoạt động công dân đã tranh đấu để gìn giữ
thành phố cổ vì nó có ý nghĩa đối với họ. Ngày nay, rất ít dân Bắc Kinh đích thực
sống trong thành phố cũ; họ đã dời chỗ ở đến các vùng ngoại ô và được thay thế
bởi những di dân (những người nghèo từ vùng nội địa của Hoa Lục, hoặc người hồi
hương giàu có) không có chút liên hệ với quá khứ của thành phố. Thành phố có những
câu chuyện của nó, nhưng là bí ẩn đối với hầu hết cư dân.
Một khác biệt nữa
là những nỗ lực kỷ niệm quá khứ thường làm hiểu sai hoặc
quá rời rạc thành vô nghĩa. Chẳng hạn, hầu như
tất cả các bảng ghi ở di tích lịch sử đều nêu ra một lịch sử không trọn vẹn hoặc
những điều dối trá trắng trợn. Ví dụ, cách một vài bước về phía đông Bộ
Ngoại giao là Đông Nhạc miếu (miễu núi Đông). Phía trước nó có một bia đá ghi rằng
nó đã là một công trình bảo tồn cấp quốc gia kể từ năm 1961. Một tấm bảng thứ
hai trên tường cho biết thêm một vài chi tiết, giải thích ngôi miếu được xây dựng
như thế nào vào thời nhà Nguyên (1271-1368) và là một đền thờ chính của đạo
Lão.
Thật ra, ngôi miếu
đã bị rút ruột hoàn toàn trong Cách mạng Văn hóa, tượng trong miếu bị thiêu huỷ
hoặc chở ra nhà kho rồi bị phá hủy ở đó. Trong số khoảng 50 tượng hiện có trong
miếu chỉ có 5 tượng cổ, số còn lại đều là tượng mới. Năm tượng cổ thuộc một miếu
khác, Tam Quan miếu (Sanguanmiao/三官庙: Miễu ba vị quan). Sau khi thời đại Mao kết thúc vào
cuối thập niên 1970 và các đền chùa mở cửa trở lại, người ta không thể xác định
được các tượng của miếu Đông Nhạc ở đâu nên mấy tượng của miếu Tam Quan vốn vẫn
còn bị một văn phòng chính phủ chiếm, đã được đưa về đó.
Du khách cũng
không biết được gì về việc diện tích của ngôi miếu đã được bị giảm đi rất nhiều
như thế nào trong Cách mạng Văn hóa vì nó đã bị các cơ quan an ninh quân sự và
công an chiếm. Khi thời đại Mao kết thúc, họ bỏ trống phần lõi ở giữa của ngôi
miếu – ba khoảng sân và các kiến trúc mà ta thấy hiện nay. Phần còn lại do Công
an chiếm cho đến thập niên 1990, và cuối cùng bị phá bỏ và biến thành đất
thương mại vào đầu thập niên 2000. Các kiến trúc còn lại tạm hoạt động như một
ngôi miếu. Khi quân đội, công an dời đi, Bộ Văn hóa chuyển vào và biến ngôi miếu
thành một bảo tàng văn hóa dân gian. Chỉ sau một cuộc đấu tranh kéo dài thì Hội
Đạo Lão Hoa Lục mới giành lại quyền kiểm soát một phần của ngôi miếu vào đầu thập
niên 2000, nhưng vẫn phải chia sẻ không gian.
Tất nhiên, các bảng
ghi chẳng giải thích chút gì về điều này. Thay vào đó, người ta có ấn tượng rằng
ngôi miếu luôn luôn là như thế- một di tích xưa 800 năm trong quá khứ tuyệt vời
của Hoa Lục. Lịch sử mà tôi đã phác thảo ra ở đây không phải là điều khẳng định
hoặc có dựa trên các bằng chứng tài liệu chắc chắn mà là một cái gì đó được tôi
tái tạo qua việc quan sát ngôi miếu hơn hai thập kỷ qua và qua việc chuyện trò
với các thầy cúng đạo Lão hiện đang làm việc ở đó. Nhưng cho đến khi kho lưu trữ
thành phố được mở thì đó có lẽ là điều tốt nhất chúng ta có thể hy vọng tới.
Lịch sử bị
tái tạo
Đảng
Cộng sản không chỉ bưng bít lịch sử mà còn tái tạo lại nó để phục vụ hiện tại. Ở Hoa Lục, điều này tiếp sau việc đảng gần tới tự hủy
diệt trong Cách mạng Văn hóa, dẫn đến một tìm kiếm tuyệt vọng cho tính chính
đáng về hệ tư tưởng. Lúc đầu, chủ yếu là về kinh tế, nhưng sau vụ thảm sát người
biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, đảng
đã bắt đầu tự thúc đẩy bản thân tích cực hơn như những kẻ bảo vệ cho nền văn
hóa và truyền thống Hoa Lục.
Một cách mà họ
đã bắt đầu làm điều này là tự định vị mình như người bảo vệ “di sản văn hóa phi
vật thể”, một thuật ngữ lấy theo Unesco, tổ chức này giữ một danh sách các truyền
thống quan trọng đối với các quốc gia cụ thể theo từng nước. Trái ngược với các
đia điểm di sản thế giới vốn là những cấu trúc vật lý như Vạn Lý Trường Thành
hoặc Tử Cấm Thành, di sản phi vật thể bao gồm âm nhạc, ẩm thực, sân khấu, lễ hội.
Đại lộ Tiền
Môn (Qianmen/前门), xây dựng lại theo phong cách của các triều đại nhà
Minh và nhà Thanh. Ảnh: China Photos / Getty Images
Mãi tới thập
niên 1990 Hoa Lục, một số trong những truyền thống này vẫn bị gán là “mê tín
phong kiến”, một thuật ngữ xúc phạm trong từ vựng của cộng sản đồng nghĩa với
các tập quán văn hóa lạc hậu. Ví dụ, đám tang kiểu xưa bị bài xích khắp nơi,
nhưng bây giờ lại nằm trên danh sách văn hóa phi vật thể của chính phủ. Tới âm
nhạc tôn giáo vốn chỉ trình diễn trong các dịp lễ hội trong các đền thờ đạo Lão
cũng thế.
Kể từ
khi lên nắm quyền vào tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình đã tự giấu mình trong lớp
vỏ bọc truyền thống triệt để hơn bất kỳ nhà lãnh đạo Hoa Lục kể từ khi hệ thống
đế chế sụp đổ vào năm 1911.
Xây dựng trên công việc của các tiền nhiệm, đặc biệt là Hồ Cẩm Đào và lời kêu gọi
về một “xã hội hài hòa” (hexie shehui/和谐社会)
nghe có vẻ của đạo Lão, chương trình tư tưởng của Tập Cận Bình bao gồm việc thừa
nhận rõ ràng các hình tượng đạo đức và tôn giáo truyền thống.
Năm 2013, theo một
bài báo tin tức ngày 5 tháng 12, Tập Cận Bình đi thăm quê hương Khổng Tử ở Khúc
Phụ (Qufu/曲阜), nhặt cuốn Luận ngữ – một cuốn sách về các câu nói
và ý tưởng của nhà triết học vĩ đại này – cùng cuốn tiểu sử của ông này, và
tuyên bố: “tôi muốn đọc cẩn thận hai quyển này”. Ông cũng đặt ra câu cách ngôn
kiểu Khổng Tử của riêng mình – “một nhà
nước không có đạo đức thì không thể trường tồn”. Năm sau, ông trở thành nhà
lãnh đạo đảng Cộng sản đầu tiên tham gia lễ kỷ niệm sinh nhật của Khổng Tử.
Phát biểu tại Hội Nho giáo quốc tế, Tập Cận Bình nói: “để hiểu Hoa Lục ngày nay, dân tộc Hoa Lục ngày nay, chúng ta phải hiểu
văn hóa và huyết thống Hoa Lục, và nuôi dưỡng việc nắm giữ chính mảnh đất văn
hóa riêng của dân tộc Hoa Lục”.Những lời bóng gió cổ điển của ông đã trở
nên nhiều đến mức vào ngày 8 tháng 5 năm 2014, tờ Nhân dân nhật báo đã phải
đăng một trang đầy để giải thích chúng.
Không lâu sau
khi Tập Cận Bình nắm quyền lãnh đạo đảng, những lời hô hào truyền thống đã chiếm
lĩnh không gian công cộng của các thành phố ở Hoa Lục. Ví dụ vào giữa năm 2013,
nhiều áp phích bắt đầu treo khắp Hoa Lục, khéo léo chiếm dụng nghệ thuật truyền
thống Hoa Lục, ghép những hình ảnh này với những thứ liên quan tới “Giấc mơ Hoa
Lục”.
Giấc mơ Hoa Lục
là đóng góp của Tập Cận Bình vào kho khẩu hiệu quốc gia – mỗi nhà lãnh đạo đứng
đầu phải có ít nhất một khẩu hiệu. Hầu hết đều đề cập đến các chủ thuyết bí hiểm,
chẳng hạn như thuyết “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân, thuyết này đặt ra
công việc cho đảng là phải đại diện cho một mảng xã hội rộng lớn hơn so với trước
đây. Ngược lại, ý tưởng Tập Cận Bình đơn giản để nắm bắt hơn – ai mà không có một
giấc mơ? Khẩu hiệu trở nên liên kết với nhiều mục tiêu, trong đó có chủ nghĩa
dân tộc và việc Hoa Lục vươn lên nổi trội trên toàn cầu, nhưng ở trong nước,
hình ảnh của nó gần như luôn luôn liên quan đến văn hóa và đạo đức truyền thống.
Ở Hoa Lục, hầu hết
việc tuyên truyền lâu nay trông nhàm chán: thường là biểu ngữ đỏ với chữ trắng
hoặc vàng cổ vũ người dân theo chủ trương của đảng Cộng sản, tuân thủ điều tra
dân số, hoặc làm cho khu vực địa phương họ đẹp hơn. Tuy nhiên, các áp phích Giấc
mơ Hoa Lục thì đầy màu sắc, tươi sáng và xinh xắn. Nhiều áp phích trong số đó
chứa tranh vẽ những tượng đất sét nhỏ được nặn bởi “Nê nhân Trương” (Niren
Zhang/泥人张: người nặn
đất sét họ Trương), một nghệ nhân nổi tiếng được ưa thích và nổi tiếng tại Hoa
Lục như Norman Rockwell ở Mỹ. Theo truyền thống, những tượng nhỏ bằng đất sét
này thể hiện các cảnh trong đời sống hàng ngày và tôn giáo, hay giải trí, chẳng
hạn như các nhân vật trong Kinh kịch, hay các vị thần như Quan Công. Nhiều bộ
tượng này đã được gửi đến hội chợ thế giới trong những năm cuối của triều đại
nhà Thanh (1644-1911) như là ví dụ về nghệ thuật Hoa Lục.
Nổi tiếng nhất
trong những áp phích Giấc mơ Hoa Lục có ảnh tượng của một cô bé mũm mĩm,nghiêng
đầu mơ màng của người nặn tượng họ Trương. Bên dưới là một bài thơ đúc kết
ước mơ cá nhân và đất nước:
Ôi Trung
Hoa
Giấc mơ của
ta
Một giấc mơ
hoa
Tác giả của bài
thơ này là Nhất Thanh (Yi Qing/一清), bút danh của Tạ Liễu Thanh (Xie Liuqing /谢柳青).
Ông Thanh là một biên tập viên của tạp chí Thế giới Hán ngữ và đứng đầu Blog nổi
tiếng của Hoa Lục Salon, một blog trao đổi chủ yếu với các vấn đề dân tộc và được
đăng ký dưới trang web chính thức của Bộ tuyên truyền. Thanh cũng viết kịch và
nhạc kịch, tất cả đều ca ngợi đảng và đặc biệt là Mao. Vài chục tác phẩm của
ông dựa trên những sự kiện lịch sử lớn đã được xuất bản, dựng thành phim hoặc
chương trình truyền hình, hay trình diễn ở nhà hát. Một số bài viết trên blog của
ông đã được đăng trên tờ Cầu Thị (求是: Tìm kiếm điều đúng), tạp chí tư tưởng chính của đảng.
Ở một mức độ,
ông Thanh có thể chỉ đơn giản là xem như là một nhân viên mù quáng của chính
quyền, nặn ra chất liệu cho chiến dịch mới nhất của nhà nước. Nhưng khi tôi đến
thăm ông vào năm 2013, câu chuyện của ông hóa ra là thú vị hơn, và phát hiện ra
những kỹ thuật tuyên truyền tinh vi được đảng cộng sản
sử dụng trong thập niên 2010 để tạo ra một hệ tư tưởng có thể liên kết chủ
nghĩa cộng sản với những giá trị truyền thống.
Ông Thanh mời
tôi đến phòng làm việc của ông. Hóa ra đó là một phòng tại khách sạn Ordos ở Bắc
Kinh. Tôi ngạc nhiên khi biết rằng Xie không có một phòng làm việc phù hợp tại
công sở vì ông không phải là quan chức chính phủ như tôi đã tưởng mà chỉ là một
nghệ sĩ tự do (freelancer). Chúng tôi trò chuyện một lúc và ông nói với tôi ông
gốc ở Hồ Nam, cùng quê với Mao Trạch Đông. Hầu hết các công trình của ông Thanh
là nói về Mao, người mà ông ta cho là một anh hùng của Hoa Lục hiện đại. Ông
Thanh nói “Bạn có thể chỉ trích ông ấy,
nhưng bạn không thể phủ nhận rằng ông ấy quan trọng. Tôi tin chắc điều đó.”
‘Giấc mơ Hoa Lục’ là khẩu hiệu dấu ấn của Chủ tịch Tập
Cận Bình. Ảnh: Bloomberg / Bloomberg qua Getty Images
Tham gia với
chúng tôi có thêm Trương Gia Bân (Zhang Jiabin/张嘉斌), một biên tập viên của nhà xuất bản Hồng Kỳ, một
công ty của đảng cộng sản vừa xuất bản một bộ sưu tập của các áp phích, và cũng
là thơ của Tạ Liễu Thanh. Ông Thanh cho chúng tôi xem một đoạn video ngắn của một
buổi lễ ca tụng các áp phích Giấc mơ Hoa Lục. Trong clip này, ông Thanh giải
thích rằng ông đã nhìn thấy bức tượng dấu ấn cô gái mũm mĩm lúc ở tại một cuộc
triển lãm ở khu Hoài Nhu (Huairou/怀柔) Bắc Kinh. Ông đăng nhiều ảnh trực tuyến với một vài
câu thơ đối.
Đầu năm 2013,
khi ban văn minh, một cơ quan chính phủ, lên kế hoạch cho một chiến dịch quảng
bá ý tưởng về giấc mơ Hoa Lục của Tập Cận Bình, họ đã nhìn thấy những bài thơ của
Tạ Liễu Thanh cùng hình ảnh của các nhân vật. Ông đã gặp với các quan chức và
cùng hợp sức suy nghĩ nẩy ra ý tưởng mở rộng chiến dịch bao gồm nhiều loại hình
văn hóa truyền thống, kể cả tranh dân quê và tranh khắc gỗ.
“Họ nói, này, chúng tôi cần nhiều thơ hơn nữa vì vậy
tôi chỉ thảo vội ra một cách nhanh chóng và bây giờ chúng hiện lên,” ông nói khi đoạn video kết thúc. “Nó phải là một chiến dịch dài 60 000km.
Đó là số kilomet đường cao tốc có ở Hoa Lục – chúng tôi nói đùa rằng phảiphủ nó
trên mỗi mét đường”.
Đó khó thể là một
sự cường điệu. Thật khó để tránh các áp phích. Có lúc các áp phích cổ xuý các
giá trị truyền thống như lòng hiếu thảo ( “trung thực và quan tâm, được truyền
lại qua nhiều thế hệ”), lúc khác lại là lòng ngưỡng mộ triệt để đối với đảng Cộng
sản ( “cùm dưới chân, còng trên tay / cỏ mạnh chịu được gió to / đảng viên Cộng
sản lên đường / núi có thể lay nhưng lòng người không hề chuyển / nhiệt huyết
hoà hoa xuân sẽ viết nên lịch sử hôm nay “). Đôi khi chúng chỉ đề cao tinh thần
yêu nước hay chủ nghĩa dân tộc (“Đất nước ta tươi đẹp” và “Đó là mùa xuân cho
tương lai của cha chúng ta”). Tất cả cho thấy làm saocó đồng minh nào tốt hơn lịch
sử đối với chính phủ hiện nay.
Lịch sử được
phục hồi
Đôi khi việc lịch
sử nổi lên trở lại trong ý thức cộng đồng là không có chủ ý và phi chính trị.
Điều này làm tôi chú ý tôi một ngày vào năm 2014 khi tôi đi nghe một buổi nói
chuyện tại văn phòng chính của Cục Lưu trữ Quốc gia, bên cạnh Công viên Bắc Hải
ở Bắc Kinh. Diễn giả là Lưu Quốc Trung (Liu Guozhong/刘国忠), giáo sư tại Đại học Thanh Hoa có giọng nói nặng và
đôi mắt nhỏ thường biến mất khi ông cười. Ông Trung nói tự do không theo ghi
chép sẵn trong 90 phút về một cái gì đó có vẻ mơ hồ nhưng lại dần dần làm lay động
giới trí thức Hoa Lục: việc phát hiện bản văn dài 2 500 năm trước đây bị
thất lạc.
Các bản văn tiếng
Trung xưa nhất được biết đến được gọi là giáp cốt văn. Viết trên mai rùa, chúng
thường liên quan đến một phạm vi hẹp các chủ đề: các loại cây trồng nên trồng
vào ngày nào, nhà vua có nên phát động một cuộc chiến tranh không? Kết hôn ra
sao? Đi lại thế nào? Thông qua chúng, những mối quan tâm cơ bản của cuộc sống của
vua có thể được đong đếm.
Các bản văn mà
chúng ta tìm hiểu về chúng ở đây được viết sau hơn một thiên niên kỷ trên các
thẻ tre, chúng có chiều dài bằng đôi đũa. Những bản viết này không mô tả đủ thứ
chuyện về cuộc sống của triều đình mà là loại văn bản đầu tiên (ur-text) của
văn hóa Trung Hoa. Trong 20 năm qua, ba lô thẻ tre thuộc thời kỳ này đã được
khai quật. Giáo sư Trung ở đó để giới thiệu lô thứ ba – và là lô lớn nhất – của
khám phá này, bộ 2 500 thẻ tìm được đã được tặng cho Đại học Thanh Hoa năm
2008.
Dự án này
nhằm phân loại và nghiên cứu các thẻ được nhà sử học nổi tiếng nhất của Hoa Lục,
Lí Học Cần (Li Xueqin/李学勤) lãnh đạo. Ông Cần đứng đầu nhiều dự án lớn, trong đó
có một nỗ lực trong những thập niên 1990 để xác định thời gian các triều đại
bán thần thoại cách đây khoảng 5 000 năm, chẳng hạn như Hạ và Thương, được
xem như các triều đại sớm nhất trong nền văn minh Hoa Lục. Qua hàng nghìn năm,
sự tồn tại của cac triều đại này xem như chuyện hiển nhiên, mặc dù không có văn
bản hoặc các tài liệu khảo cổ học liên quan đến một số là có thể truy nguồn được
(tính lịch sử của thời nhà Hạ đặc biệt đáng nghi ngờ). Vào đầu thế kỷ 20, các
nhà sử học ở Hoa Lục bắt đầu một phong trào “cổ đại nghi vấn”, chấn vấn sự tồn
tại của các triều đại này, khẳng định rằng chúng chỉ đơn thuần là chuyện hoang
đường. Việc đó chẳng những là một tranh luận trí thức mà nó còn hơn thế, thách
thức cả sự chắc chắn ấp ủ sâu kín trong người Hoa Lục rằng nền văn minh của họ
là một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên hành tinh, xa xưa như Ai Cập
cổ đại. Nỗ lực của ông Cần cốt yếu là đẩy lùi sự hoài nghi này, qua việc sắp xếp
các bằng chứng cho thấy các triều đại đó thực sự tồn tại.
Các thẻ tre mà
ông Trung mô tả thuộc một thời kỳ sau đó rất nhiều, nhưng chúng thách thức tính
chắc chắn của nền văn hóa Hoa Lục theo những cách có thể sâu sắc hơn. Các bản
văn này bắt nguồn từ thời Chiến quốc, một thời đại hỗn loạn ở Hoa Lục kéo dài từ
thế kỷ 5 đến thế kỷ 3 trước Công nguyên. Tất cả các trường phái tư tưởng chính
của Hoa Lục tồn tại ngày nay đều bắt nguồn từ thời kỳ này, đặc biệt là Lão giáo
và Nho giáo vốn là hệ tư tưởng chính trị chiếm ưu thế của đất nước, mà
các vị vua và hoàng đế noi theo – ít nhất trên lý thuyết – cho đến thế kỷ thứ
20.
Các thẻ tre làm
thay đổi cách chúng ta hiểu về thời kỳ này. Một số người đã so sánh tác động của
nó đối với sự hiểu biết về quá khứ của Hoa Lục với cách mà quá khứ đã được nhìn
trong thời Khai sáng của châu Âu, một giai đoạn khi các văn bản cốt lõi của
phương tây lần đầu tiên được phân tích như là tài liệu lịch sử thay vì là văn bản
được chuyển giao nguyên vẹn từ thời xa xưa. “Như thể đột nhiên bạn có các văn bản bàn luận về Socrates và Plato mà bạn
không biết là có tồn tại,” Sarah Allan, giáo sư đại học Dartmouth từng làm
việc với ông Cần và ông Trung trong dự án, nói với tôi một vài tháng trước khi
tôi nghe ông Trung nói: “Mọi người cũng
nói nó giống như các cuộn giấy tài liệu cổ ở biển Chết, nhưng chúng quan trọng
hơn thế. Đó không phải là tài liệu giả mà những văn bản này là từ thời kỳ khi
mà phần cốt lõi của triết học Hoa Lục đang được thảo luận. Chúng đang làm biến
đổi sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử Hoa Lục“.
Một trong những ý tưởng đáng ngạc nhiên đi vào trong
các văn bản mới là những ý tưởng vốn chỉ được nhắc đến trong các sách kinh điển
Nho giáo hiện nay được phát hiện như là trường phái tư tưởng toàn diện thách thức
những ý tưởng truyền thống chính yếu. Ví dụ, một bản văn lập luận ủng hộ việc chọn người theo tài đức mạnh mẽ hơn rất
nhiều so với được thấy trong các kinh sách hiện đang được biết đến của Nho
giáo. Cho đến nay, kinh sách Nho giáo chỉ cho phép việc thoái vị hoặc việc thay
thế một nhà cai trị như là điều ngoại lệ hiếm hoi; nếu không phải là cha truyền
con nối ngôi vua – một quan điểm theo hướng thành lập và phản cách mạng nhiều
hơn. Các bản văn mới lập luận chống lại điều này. Đối
với một nhà nước độc tài tự bọc mình trong “truyền thống” để biện minh cho quyền
cai trị vĩnh viễn, ý nghĩa của trường phái mới này là tế nhị nhưng thú vị.
Allan nói với tôi “Đó không phải là kêu gọi
dân chủ mà nó lập luận mạnh mẽ hơn cho việc cai trị dựa trên tài đức thay vì
cha truyền con nối.”
Trở lại khán phòng bên cạnh Công viên Bắc Hải, giáo
sư Trung tiếp tục nói về những phát hiện mới. Ông phóng các tiêu đề chính của tờ
báo trên màn hình. Truyền thông ở Hoa Lục rất quan tâm, ông nói. Sau khi mỗi tập
được phát hành, truyền thông Hoa Lục lao vào thảo luận về những phát hiện này,
trong khi các blog và những người nghiệp dư cũng cố tự giải thích những phát hiện
mới theo cách của mình. Khán giả chăm chú lắng nghe ông Trung khi ông vạch ra lịch
trình xuất bản của nhóm Thanh Hoa.
“Chúng tôi
nghĩ rằng chúng tôi có 15 tập nữa, tức là thêm 15 năm nữa – cho đến khi tôi nghỉ
hưu”, ông Trung vừa nói vừa cười. “Nhưng
lúc đó bạn và những người khác sẽ tranh luận việc này cho đến cuối thế kỷ này.
Nghiên cứu không dứt.”
Giáo sư Trung kết luận và cúi chào khán giả. Ông tiếp
tục nói cho tới hết 90 phút được phân bổ còn các nhân viên phụ trách trông cho
mau hết để ra về. Ngay khi ông rời bục giảng là họ đã bắt đầu tắt đèn. Nhưng
khán giả đổ xô lên sân khấu, dồn dập đưa ra nhiều câu hỏi cho giáo sư Trung. Có
một ông từ Hội Nghiên cứu kinh Dịch hỏi họ sẽ xử lý bản văn mới này như thế nào
về việc bói toán. Một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Bắc Kinh háo hức hỏi về ý
nghĩa chính trị của sự thoái vị. Giáo sư Trung đã trả lời tất cả lúc phân phát
danh thiếp. Khi tờ cuối cùng của chồng danh thiếp phát xong, mọi người bắt đầu
chuyển chúng vòng quanh, chụp ảnh danh thiếp của ông với điện thoại di động.
Gian phòng bây giờ chỉ được chiếu sáng nhờ ánh sáng lờ mờ của mặt trời mùa
đông. Các nhân viên bảo vệ đứng phía sau chờ để khóa cửa nhưng đám đông mấy chục
người không để cho giáo sư Trung đi. Đối với họ, ông đã nắm giữ một chìa khóa
cho hiện tại: quá khứ.
Bài tiểu luận này được làm gọn từ quyển
The Oxford Illustrated History of Modern China (Lịch sử Hoa Lục hiện đại qua
hình ảnh của Oxford), sẽ được xuất bản bởi OUP vào ngày 23 tháng 6