“Trong nước, từ một em bé tiểu học cho đến
một cán bộ đảng cao cấp có lập trường chính trị hồng như ráng trời chiều đều có
ít nhiều vi khuẩn sợ trong người.”
Bịnh sợ dưới chế độ CS
Trần
Trung Đạo
Một người dân tham gia biểu tình phản đối Formosa hôm
2-10 vừa qua, đang đứng trước một hàng rào cảnh sát. Nguồn: internet
Sợ là một ý thức
hiển nhiên gắn liền với số phận con người. Sợ sống, sợ già, sợ đau, sợ chết,
nói chung, sợ tất cả những hiện tượng mà con người luôn phải đối đầu nhưng chưa
giải thích được bản chất của chúng.
Tuy nhiên, dưới chế độ CS sợ là một căn bịnh xã hội và bịnh phát
cơn khi có một nguồn kích động xảy ra. Giống như ánh sáng tuy không phải là lý
do của bịnh đau đầu kinh niên nhưng mỗi khi bịnh nhân bước vào căn phòng quá
sáng hay đèn bật sáng bất ngờ, cơn nhức đầu lại bừng bừng nổi dậy.
Trong
nước, từ một em bé tiểu học cho đến một cán bộ đảng cao cấp có lập trường chính
trị hồng như ráng trời chiều đều có ít nhiều vi khuẩn sợ trong người. Từ những bài tập viết văn cho đến các tiểu luận,
biên khảo vẫn nặng phần trích dẫn. Thậm chí trong một bài viết vỏn vẹn hai
trang đã hơn một nửa là trích dẫn những câu kinh điển do các “lãnh tụ anh minh”
CS nào đó để lại. Trích dẫn không phải để chứng minh cho cái đúng hay che giấu
cái dốt của mình mà quan trọng hơn là để an tâm.
Trong buổi họp,
nếu ai lên tiếng phàn nàn, phản đối trước một đề nghị nào đó, chủ tọa chỉ cần dọa
“một lần đề nghị đó cũng chính là ước vọng
của lãnh tụ anh minh”, tức khắc sự phàn nàn dù không ai khuyên cũng xì
nhanh hơn bong bóng. Thói quen dựa hơi những người được trao cho quyền “bất khả
xâm phạm” trong xã hội, dù còn sống hay đã chết, cũng đều từ sự sợ hãi mà ra.
Thói quen đó đã theo thời gian phát triển thành một cố tật trong sinh hoạt văn
hóa xã hội tại Việt Nam.
Ngoài
nịnh bợ, bịnh sợ hãi còn gây ra biến chứng trầm trọng khác là đổ thừa. Trong các bài tự phê bình chính thức hay không chính
thức, những lý do khách quan bao giờ cũng nhiều hơn chủ quan. Chậm tiến là vì,
nghèo đói là vì, tham nhũng là vì, tuyệt nhiên không có cái vì nào trong số đó
là lỗi của mình.
Trong lúc sự sợ
hãi là một phần của số phận con người như vừa trình bày, nó chỉ trở nên tai họa
tập thể khi mức sợ hãi phát triển thành một bịnh trạng của cả xã hội, tồn tại
như một phần của đời sống văn hóa, gây nên những phản động lực cản trở sự phát
triển tinh thần của con người và ngăn chận sự thăng tiến của xã hội.
Trong lịch sử của
nhân loại thời cận đại, xã hội Liên Xô dưới thời Stalin và Bắc Hàn trong thời
Kim Nhật Thành, có thể được xem là những nơi căn bệnh sợ hãi đã bị xã hội hóa đến
mức độ gần như toàn diện.
Dưới chế độ toàn trị của Stalin, con người thấy
chung quanh họ không có ai là bạn mà chỉ toàn là kẻ thù, kể cả cha mẹ, vợ chồng,
anh em, bè bạn. Đảng có kẻ thù của đảng, nhà nước có kẻ thù của nhà nước, nhân
dân có kẻ thù của nhân dân. Chủ trương trồng cấy vi khuẩn sợ hãi vào toàn bộ xã
hội Liên Xô của Stalin thành công đến mức có lần y cho rằng một ngày các cơ
quan an ninh để kiểm soát dân chúng có thể không còn cần thiết. Lý do Stalin tự
tin như thế bởi vì sợ hãi đã có thể tự quản được trong chính mỗi con người.
Bệnh trạng sợ hãi tại Bắc Hàn so với Liên Xô còn trầm
trọng hơn vì nhiều nơi tại Bắc Hàn con người được thuần hóa đến mức không còn
biết sợ là gì. Nhận thức của con người họ phụ thuộc hoàn toàn vào một trung tâm
chỉ đạo ý thức được điều khiển từ bên ngoài. Nhiều người dân Bắc Hàn hoàn toàn
mất ý niệm không gian và thời gian. Ngày tháng và nơi chốn đã bị đổi thay sau
khi Kim Nhật Thành xóa bỏ niên lịch AD đang được dùng trên thế giới và thay vào
đó bằng lịch Juche lấy năm sinh của họ Kim làm chuẩn. Ví dụ, năm 2000 là năm cuối
cùng của thiên niên kỷ đối với phần lớn thế giới nhưng tại Bắc Hàn chỉ mới là
năm Juche 99.
Nếu lý luận theo quan điểm kinh tế của Mác, khi mức
độ xã hội hóa của nền kinh tế đạt đến mức toàn diện, chế độ kinh tế tất yếu sẽ
biến thái, thì sự biến thái của các xã hội khống chế bằng nỗi lo sợ toàn diện
như trường hợp Bắc Hàn, không có gì khác hơn là mang con người trở về thời
nguyên thủy.
Cũng may, con người có lý trí và dù trong hoàn cảnh
nghiệt ngã đến đâu nghị lực con người vẫn âm thầm phản kháng và tìm mọi cách
vươn lên.
Phong trào chống sợ và vươn lên như thế đang
lan rộng tại Việt Nam. Đó là một tin mừng, bởi vì bịnh sợ càng thuyên giảm
nhanh bao nhiêu, ngày tự do cho đất nước sẽ đến sớm bấy nhiêu.