“Nó có vẻ là câu chuyện bi tráng của một
thế hệ người Việt Nam đã cố gắng xây dựng một chính quyền quốc gia tại miền Nam Việt Nam độc lập, vững mạnh theo hướng
dựa trên hiến pháp, công bằng, dân chủ,
và thượng tôn pháp luật, giữa những điều kiện chiến tranh ngặt nghèo,
thiếu thốn, khi mà một đồng minh lớn từ từ bỏ rơi họ một cách cay nghiệt.”
Di sản của nền Đệ Nhị Cộng Hòa
Bù
nhìn, tham nhũng, hèn nhát, thối nát, ngụy quân, ngụy quyền, độc tài, tàn ác,
đánh thuê, phản dân, tư sản mại bản, phong kiến thân Mỹ, tay sai đế quốc,
bất hợp pháp, phi nhân tính, dối trá, xỏ lá, ba que,…
Chỉ là một số ít
những ngôn từ vẫn hay được sử dụng để nói về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, một
chính quyền tồn tại 20 năm (1955-1975) tại miền Nam Việt Nam trước khi bị xóa sổ
khi những binh đoàn quân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (hay còn gọi là Bắc Việt)
tràn vào Sài Gòn mùa xuân năm 1975. Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa đánh dấu chấm
hết cho một cuộc chiến đẫm máu mà kết cục của nó khiến cho “triệu người vui” và
cũng làm cho “triệu người buồn”.
Có một câu ngạn
ngữ Châu Phi nói “Chừng nào sư tử còn chưa biết viết,
sử sách vẫn mãi ngợi ca những kẻ thợ săn“.
Phải chăng những
cái nhìn phê phán cay độc, xem thường, và dè bỉu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
vốn bấy lâu nay vẫn được tuyên truyền giảng dạy rộng rãi trong nước đã chỉ là
những lời “ngợi ca những người thợ săn”?
Nhà sử học kỳ cựu
người Mỹ Keith Weller Taylor, giáo sư sử học đại học Cornell, một trong những sử
gia hàng đầu thế giới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam, có lẽ đã có một mối
hoài nghi gần giống như thế khi ông tiến hành làm cuốn sách “Những
Tiếng Nói Từ nền Đệ Nhị Cộng Hòa Nam Việt Nam (1967-1975)” (Voices from the
Second Republic of South Vietnam (1967–1975).
Nhà
sử học Keith Weller Taylor (Ảnh: lrc.cornell.edu)
Cuốn
sách không đầy 200 trang này tập hợp các bài viết từ 10 tác giả vốn là những
công chức, quân nhân, và chính trị gia từng phục vụ cho nền Đệ Nhị Cộng Hòa của
chính phủ Nam Việt Nam (kéo dài từ năm 1967 đến 1975).
Bằng
cái nhìn của những người trong cuộc, những người đã trực tiếp góp mồ hôi công sức tham gia quản trị, bảo vệ,
và xây dựng đất nước bằng kiến thức, khả năng, và bằng lòng yêu nước chân thành
của chính họ (cho dù nhiều người sẽ tranh cãi rằng thứ họ yêu, Nam Việt Nam,
chưa bao giờ là một đất nước hợp pháp thật sự), các
tác giả trong cuốn sách này đã đóng góp được những tiếng nói chân thành và
sát thực về thực trạng Nam Việt Nam trong giai đoạn đầy biến động
của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Những người đọc
vốn đã quen với phiên bản lịch sử chính thống được tuyên truyền trong nước có lẽ
sẽ ngạc nhiên khi biết rằng nền Đệ Nhị Cộng Hòa, bằng những cách không công bằng,
đã luôn bị “gói chung một rọ” với nền Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) và giai đoạn
giao thời giữa hai nền cộng hòa như thế nào. Và họ có lẽ cũng sẽ ngạc nhiên
mà biết rằng khi khái niệm dân chủ còn là một thứ gì đó mơ hồ lẩn khuất
trong làn khói chiến tranh, tại miền Nam, đã có một cuộc thử nghiệm xây dựng đất
nước dân chủ vốn cuối cùng bị những dòng thác lũ của định mệnh
nhấn chìm.
Câu
chuyện thật của nền Đệ Nhị Cộng Hòa có vẻ không hẳn là câu chuyện của một
chính quyền chuyên chế hủ bại.
Nó có vẻ là câu
chuyện bi tráng của một thế hệ người Việt Nam đã cố gắng xây dựng một
chính quyền quốc gia tại miền Nam Việt Nam độc lập, vững mạnh theo hướng dựa
trên hiến pháp, công bằng, dân chủ, và thượng tôn pháp luật, giữa những điều
kiện chiến tranh ngặt nghèo, thiếu thốn, khi mà một đồng minh lớn từ từ bỏ
rơi họ một cách cay nghiệt.
Ai đó sẽ cười nhạt
“trong lịch sử làm gì có chữ nếu”, nhưng có lẽ đã đến lúc tất cả chúng ta cùng
tưởng tượng, rằng nếu loài sư tử biết viết…
oOo
Trích đoạn “Những Tiếng Nói Từ nền Đệ Nhị
Cộng Hòa Nam Việt Nam (1967-1975)”
Voices from the
Second Republic of South Vietnam (1967–1975)
Chủ biên: Keith
Weller Taylor (Nhà xuất bản đại học Cornell năm 2015)
“…Năm 1967, một
hiến pháp mới được ban hành và thực thi, tạo ra nền Đệ
Nhị Cộng Hòa (1967-1975). Dưới quyền tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chính thể này ổn định tình hình chính trị, và
càng lúc càng chịu trách nhiệm cho sự tồn tại của chính nó hơn khi quân đội Mỹ
rút lui, và vào năm 1973 rút hẳn hoàn toàn.
Trong những năm
này, các công dân bình thường, những nhà giáo dục, nhà báo, chính trị gia,
doanh nhân, các nhà quản trị, luật sư, thẩm phán, lãnh đạo quân đội và các nhà
ngoại giao cùng nhau nỗ lực xây dựng một chính phủ dựa trên hiến pháp
(constitutional government) bằng việc tổ chức các cuộc bầu cử tương đối cởi mở
cùng sự có mặt của một ngành hành pháp, một ngành lập pháp và một ngành tư
pháp.
Vừa trỗi dậy từ
một chính thể thực dân và từ những cuộc tranh đấu trong một quá trình phi thực
dân hóa đầy náo động, không có sẵn truyền thống chủ nghĩa hiến pháp
(constitutionalism) hay truyền thống dân chủ, và với một quốc gia láng giềng
nung nấu ý định hủy diệt cuộc thử nghiệm chính trị của nó, lại thêm việc có một
đồng minh đang trong thời kỳ muốn từ bỏ nỗ lực giúp đỡ của họ nhất, đất nước này tuy thế vẫn bền trí và đã giành được nhiều
thành tựu.
Danh
sách các thành tựu của nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã luôn bị phớt lờ bởi gần như tất cả
những ai đã từng viết về những năm cuối của cuộc chiến; danh sách đó là một nỗi xấu hổ cho người Mỹ bởi vì một trong những ý tưởng
đã được phe theo quan điểm phản chiến truyền bá. Ý tưởng này cuối cùng đã thống
trị hoàn toàn tư duy chính trị và học thuật Hoa Kỳ, nó cho rằng chính phủ tại
Sài Gòn là một nền độc tài không thể cứu vãn được, không xứng đáng với sự trợ
giúp của Hoa Kỳ, hay là chính quyền đó thể nào cũng thất bại.
Ý tưởng này tạo
ra một sự an ủi mang tính đạo đức cho người Mỹ vốn đã hoàn toàn có thể cảm thấy
khổ sở với việc phải quay lưng với một đồng minh đang bị đe dọa trong thời khác
họ cần giúp đỡ nhất; ý tưởng này phản ánh sự thất vọng của người Mỹ hơn là phản
ánh những gì đang diễn ra lúc đó với người Việt.
Những tiếng
nói trong cuốn sách này phản ánh những khát vọng và nỗ lực của những người đã từng
cống hiến cho tương lai của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Có ít nhất bốn thành tựu quan trọng đạt được trong thời
Đệ Nhị Cộng Hòa:
Đầu tiên, từ quan điểm chiến trận, quân đội Việt
Nam Cộng Hòa (Army of the Second Republic of Vietnam, viết tắt ARVN) gánh lấy
tránh nhiệm chiến đấu. Cho
dù cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 làm xoay chuyển ý kiến công luận Mỹ
sang chống lại cuộc chiến, cuộc tấn công này đã có một ảnh hưởng rất khác đến
Nam Việt Nam.
Tổn thất nặng nề của các lực lượng Cộng sản Tết Mậu
Thân 1968 (Ảnh: pinterest.com/emmajchapman)
Những tổn thất của
lực lượng Cộng sản giúp tạo điều kiện cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa giành lại
quyền kiểm soát phần lớn các khu vực đồng quê và bắt đầu thực thi một số chính
sách được dân chúng các miền nông thôn ủng hộ.
Thêm vào đó, bằng
việc mang chiến tranh vào thành thị, lực lượng Cộng sản đã tập hợp quần chúng
đô thị chống lại chính những người Cộng sản; một
số lớn dân chúng đô thị đã nhận ra rằng họ có một thứ nào đó để chiến đấu vì
nó: nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Các lực lượng Hoa Kỳ càng rút lui bao nhiêu, các lực
lượng Nam Việt Nam lại càng nhận thêm trách nhiệm bảo vệ đất nước của họ.
Vào hai năm 1970
và 1971, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thông qua phối hợp với quân đội Mỹ, hoặc
được quân đội Mỹ trợ giúp hậu cần, đã tiến hành các chiến dịch xuyên biên giới
lớn tại Campuchia và Lào trong nỗ lực làm suy giảm khả năng của quân đội Bắc Việt
trong việc sử dụng các nước này làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam.
Các chiến dịch
này đã chịu nhiều tổn thất và gây ra tranh cãi, nhưng chúng giúp phát triển
năng lực và kinh nghiệm của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, trong khi kiềm giữ được
các lực lượng Bắc Việt. Trong Chiến Dịch Xuân – Hè 1972, khi gần như toàn bộ
quân bộ binh Hoa Kỳ đã rời Việt Nam, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, với trợ giúp hậu
cần của Hoa Kỳ, đã đẩy lùi một cuộc xâm lăng đánh tận lực từ ba mặt của quân đội
Bắc Việt. Tuy nhiên, ba năm sau đó, không có sự trợ giúp vật chất và tinh thần
của phía đồng minh, nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã bị áp đảo.
Thứ hai, sau chiến dịch Tết Mậu Thân, an ninh đã được
tái phục hồi đầy đủ tại các miền thôn quê, tạo điều kiện cho một chương trình cải
cách điền địa được tiến hành. Chương trình này cách mạng hóa kinh tế,
xã hội và chính trị tại các khu vực đồng quê vùng sâu vùng xa nhất. Mặc dù phần
lớn là bị các nhà quan sát ngoại quốc phớt lờ, chương
trình này tạo điều kiện cho một mối quan hệ công bình hơn giữa miền thành thị
và miền thôn quê, và cho một sự xây dựng tiềm năng nông nghiệp của đất nước vốn
có thể làm nền tảng cho phát triển kinh tế trong tương lai.
Thêm vào đó, cuộc
cải cách điền địa này được thực hiện một cách hòa bình và với sự giúp
đỡ của quần chúng các miền thôn quê. Theo đó, nó cho thấy một hình ảnh tương phản
với những cuộc cải cách ruộng đất đầy máu và nước mắt tại Trung cộng và tại Bắc
Việt Nam, tạo ra thêm một lý do rõ ràng cho sự tiếp diễn cuộc chiến.
Thứ ba, các thành quả lớn trong sản xuất và phân phối
gạo, quản lý thị trường, thăm dò dầu khí, và chính sách thuế khóa đặt Nam Việt
Nam vào vị trí sẵn sàng cho sự độc lập kinh tế sau cùng khi mà viện trợ
Hoa Kỳ đang giảm dần.
Một thế hệ
mới của các nhà quản trị, nhiều người trong số họ được đào tạo tại các trường đại
học Mỹ và có các nguyện vọng ái quốc mạnh mẽ, mang lại những thái độ mang tính
cải cách, thực tế, và hành động vào trong một nền hành chính quan liêu được thừa
hưởng từ quá khứ thực dân.
Đối mặt với những vấn đề khó khăn, cả tới mức tuyệt vọng, của đất nước, sự quản trị nền Đệ Nhị Cộng Hòa cho thấy một khả năng tiến
hành các sáng kiến táo bạo, mặc cho việc các nguồn lực dần cạn kiệt đi
khi mà đồng minh Hoa Kỳ khuất xa dần.
Thứ tư, đã có những bước tiến dài được thực hiện
trong việc xây dựng một hệ thống chính quyền dựa trên hiến pháp với các
cuộc bầu cử đa đảng phái cho một hệ thống lập pháp lưỡng
viện (bicameral) và với một ngành tư pháp tương
đối độc lập vốn đã giúp tăng cường các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền cá
nhân và các chuẩn mực dân chủ trong chính trị.
Bầu
cử ở Sài Gòn năm 1967 (Ảnh: virtual-saigon.net/)
Các nhà phê bình
người Mỹ thường đánh giá các tiến triển hiến pháp của người Việt Nam bằng cách
so sánh với những gì họ cho là thành tựu của chính hệ thống chính phủ Mỹ của họ,
vốn đã có tuổi đời đến hơn hai thế kỷ. Nhưng nếu so sánh với quá khứ ngay trước
đó của đô hộ thực dân và chiến tranh, nền Đệ Nhị Cộng Hòa cho thấy nhiều điểm cấp
tiến.
Các thành tựu
này không có nghĩa là nền Đệ Nhị Cộng Hòa không có khiếm khuyết. Nhiều
quốc gia hậu thuộc địa, bao gồm cả hai quốc gia Việt Nam, đã luôn phụ thuộc một
cách thái quá vào các nguồn lực do các cường quốc lớn cung cấp.
Tương
phản với trường hợp Bắc Việt Nam, khiếm khuyết lớn nhất của nền Đệ Nhị Cộng Hòa
là sự phụ thuộc của nó vào một đồng minh không đáng tin cậy. Các lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã có khuynh hướng
xem đồng minh Mỹ là luôn sẵn có và những nhà lãnh đạo này đã không tìm ra cách
để, hoặc là gìn giữ mối quan hệ với đồng minh này hoặc là thay thế nó khi chính
sách của Mỹ đã xoay chiều.
Nền Đệ
Nhị Cộng Hòa đã thất thủ trong một cuộc cạnh tranh tuyên truyền giữa người Mỹ với
nhau. Trong cuộc cạnh
tranh đó, chính thể này chịu tổn thất do nó bị gộp chung vào với những lỗi lầm
của nền Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963 – ND) và của giai đoạn Đứt Quãng
(Interregnum period, 1963-1967 – ND).
Dĩ nhiên, như có
thể được làm với bất kỳ quốc gia nào, và đặc biệt với một quốc gia non trẻ đang
khốn khó với những kẻ thù ghê gớm, một con mắt phê phán luôn tìm ra thiếu sót.
Nhưng những người Mỹ có cái nhìn phê phán, trong sự ngạo mạn bá quyền của họ,
đã đi xa hơn thế và thách thức cả tính chính đáng (legitimacy) của nền Đệ Nhị Cộng
Hòa trong vai trò một quốc gia độc lập (sovereign state).
Thêm nữa, hiệp định hòa bình mà chính phủ Hoa Kỳ đã thương lượng với Bắc
Việt phản ánh thái độ ngạo mạn này bằng cách làm tổn thương hiến pháp và chủ
quyền quốc gia của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Giống như
cách mà Pháp đã được xem là thương lượng thay mặt cho (và đồng thời làm phương
hại đến) những người Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia trong Hiệp định Geneva
1954, Hoa Kỳ cũng đã làm vậy trong Hiệp định Paris 1973.
Ngô Đình Diệm đã
xem Hiệp định Geneva là một thứ mà
trong đó người Pháp qua mặt ông ta để thương lượng với kẻ thù của chính ông ta.
Và Nguyễn Văn Thiệu cũng xem Hiệp định
Paris là một thứ mà trong đó người Mỹ qua mặt Thiệu để thương lượng với kẻ
thù của ông. Cả hai bản hiệp định này đều chứa những
điều khoản hoặc là có khả năng hoặc là trong thực tế đã làm cản trở những người
Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia.
Một lý do làm
cho Hiệp định Geneva gây tranh cãi chính là Pháp đã tôn trọng triệt để một thỏa
thuận quốc tế vốn có vẻ là thừa nhận yêu sách đòi quyền đại diện một quốc gia tự
chủ của những người Cộng sản Việt Nam. Trong khi đó, Pháp lại bỏ bê việc thông
qua một hiệp ước trao trả độc lập mà họ đã thương lượng với những người thuộc
phe quốc gia do Bảo Đại làm đại diện.
Sự tự phụ này của
người Pháp trong việc giữ lại chủ quyền tại Sài Gòn là nền tảng ban đầu cho các
thiết kế của người Pháp nhằm để nắm giữ quyền điều hành chính quyền tại Sài Gòn
cho đến khi có các cuộc “bầu cử” thống nhất, vốn được mong đợi là sẽ được tổ chức
hai năm sau đó, như nêu trong nội dung Hiệp định Geneva.
Lịch sử có công tâm với Ngô Đình Diệm trong vai trò một
nhà ái quốc?
(Ảnh: biografiasyvidas.com)
Ngô Đình Diệm từ
chối các thiết kế này. Ông cho rằng nó là sự nối tiếp của việc nền thực dân
Pháp nắm quyền quyết định về tương lai của người Việt.
Cuộc bầu cử tháng 10 năm 1955 mà Ngô Đình Diệm tổ chức để truất phế Bảo Đại và qua đó mở
đường cho sự công bố nền Đệ Nhất Cộng Hòa, trong thực tế, chính là một hành động
tuyên ngôn giành độc lập từ người Pháp của những người Việt Nam theo chủ nghĩa
quốc gia. Việc này lúc đó khả dĩ bởi vì những người Việt quốc gia đã tìm
được một đồng minh là Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi cuối cùng người Mỹ đạt được thỏa
thuận với những người Cộng sản tạo điều kiện cho việc Hoa Kỳ từ bỏ các vấn đề
Việt Nam, những người Việt quốc gia trở thành tứ cố vô thân.
Có lẽ là không
có cách nào để có thể vượt qua chính cái khiếm khuyết chủ yếu này của việc
không có một đồng minh đáng tin cậy trong khi những đồng minh của kẻ thù thì
duy trì gắn bó cho đến cuối. Và có lẽ là không có cách nào để có thể vượt qua
rào cản của việc bị liên kết, trong tâm trí của người Mỹ, với những thất bại
cùa nền Đệ Nhất Cộng Hòa và của giai đoạn Đứt Quãng.
Nhưng có thể
tranh luận, như một số các tác giả trong cuốn sách này sẽ làm, rằng nền Đệ Nhị
Cộng Hòa đã hoàn toàn có thể nâng cao sự hiệu quả trong việc xoay xở với đồng
minh Hoa Kỳ, bằng cách tham gia tích cực hơn vào không gian công luận Mỹ nhằm
kéo dài và tối ứu hóa các cam kết của Hoa Kỳ vào sự tồn tại của Nam Việt Nam, bất
kể sự gian khó khi mà người Mỹ đang bị hút vào những xung đột nội địa của chính
họ…”
Bìa sách “Những
Tiếng Nói Từ nền Đệ Nhị Cộng Hòa Nam Việt Nam (1967-1975)” (Ảnh: amazon.com)