„Những người trẻ được mệnh danh thuộc Thế Hệ A Còng ở Việt
Nam, ngày nay, chả ai còn nhẹ
dạ, vô tư và hồn nhiên như lớp cha anh – ở
miền Nam – ngày trước nữa.“
Thỏ Miền Nam
& Thế Hệ A Còng
tuongnangtien
Bà con miền Nam mình
thiệt nhẹ dạ, chẳng khác gì con thỏ, hồn nhiên và vô tư...
Sơn
Diệm Vũ Ngọc Ánh
Tôi đọc được câu văn dẫn thượng trong cuốn Đường
Xưa Lối Cũ, do Millennium xuất bản vào năm 2009. Bìa sau của tác
phẩm này có ghi “đôi dòng về tác giả” như sau:
“Sanh năm 1925 tại Phát Diệm, Ninh Bình, cử nhân
Văn Khoa, tốt nghiệp CĐSP (Hà Nội 1954). Từ năm 1950, ông đã dạy nhiều trường
tại Hà Nội, Đà Lạt và Sài Gòn …
Trước 1975, ông soạn nhiều sách biên khảo và giáo khoa
về văn chương và lịch sử Việt Nam. Ông cũng từng là cựu nghị sĩ, thượng viện
VNCH. Hiện ông ở tại miền Nam California, vẫn làm thơ và viết văn.”
Té ra ông anh là dân Bắc Kỳ di cư vào Nam, rồi
nhận vùng đất mới làm quê hương (chắc) vì nó quá dễ thương và cũng
hơi … dễ dụ: “Bà con miền Nam mình thiệt nhẹ dạ, chẳng khác gì con
thỏ, hồn nhiên và vô tư...”
Trời, tưởng gì chớ “hồn nhiên” và “vô tư” thì
kể như là hết biết: Ra đường gặp vịt cũng lùa. Gặp duyên
cũng kết, gặp chùa cũng tu!
Dân gian đã ghi như vậy từ lâu rồi mà. Sách
báo, tài liệu hàn lâm cũng thế. Hổng tin, đọc thử mục lục của giai
phẩm Bách
Khoa số cuối cùng – phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975 – mà
coi:
- Trần
Văn Khê: Nhạc Việt Xứ Người
- Trần
Văn Tích: Đọc Sách Dịch Lãn Ông
- Tạ
Tỵ: Nhận Xét Về Triển Lãm Hội Họa Pháp Quốc
- Đỗ
Hồng Ngọc: Ông Nguyễn Hiến Lê Và Tôi
- Bách
Khoa: Ông Nguyễn Hiến Lê và Tác Phẩm Thứ 100
- Võ
Phiến: Nhân Đọc Bản Thảo Cuốn “Nguyễn Hiến Lê” của Châu Hải Kỳ
- Bách
Khoa: Đàm Thoại Với Hoàng Ngọc Tuấn
- Minh
Đức Hoài Trinh: Hỏi Cô Đơn (thơ)
....
Coi: miền Nam – rõ ràng – mất tới nơi rồi mà
quí vị thức giả của vùng đất này đều bình chân như vại và vẫn chỉ
bận tâm đến thơ văn, hội họa, âm nhạc... thôi. Nguyên cả số báo
Bách Khoa số cuối – số 426– chỉ có vài trang quan tâm đến giới
văn nghệ sĩ (“Ai Còn Ai Mất”) trong cơn binh lửa, và một bài phỏng
vấn (“Đàm Thoại Với Hoàng Ngọc Tuấn Về Huế và Ban Mê Thuột”) có
liên quan đến thời cuộc nhưng nội dung ghe như một cuộc nhàn đàm.
Hỏi: Giờ đây chúng ta không còn Ban
Mê Thuột, anh có cảm tưởng thế nào?
Đáp: Dân ghiền cà phê như tôi lo
lắm. Vì chắc chắn cà phê sẽ lên giá khủng khiếp ...
Hỏi: Một bài học hay một kinh
nghiệm sau cuộc di tản này?
Đáp: Tóm lại, làm người Việt Nam
lúc này thật quá khó khăn và khổ sở. Nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta
sẽ cố vượt qua những chông gai và độc địa cay đắng nhất của chiến
tranh, để sớm đến cửa ngõ của hoà bình.
Thiệt đúng (y chang) như nhận xét của Sơn Diệm
Vũ Ngọc Ánh là “bà con miền Nam
mình thiệt nhẹ dạ, chẳng khác gì con thỏ.” Ngay
cả loài thỏ (e) cũng không “vô tư” quá xá như vậy. Làm gì có con thỏ
nào ngồi chờ cho chó sói tới trước cửa hang, nhe răng trắng ởn
(ngó thấy ghê) mà vẫn còn mơ tưởng đến chuyện sống an bình với ...
sói!
Nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, nói nào ngay, không
phải là người dân Nam Bộ duy nhất ngây thơ đến thế đâu. Trước tháng 4
năm 1975, ở vùng đất này, biết bao người đã cùng Thượng Toạ Thích
Nhất Hạnh “Chắp
Tay Nguyện Cầu Cho Bồ Câu Trắng Hiện”!
Sống trong một đất nước chiến tranh thì hoà
bình, tất nhiên, là ước vọng chung của rất nhiều người. Thiên hạ chưa
thấy quan tài nên chưa đổ lệ mà!
Trong một cuộc phỏng vấn, dành cho tạp chí
Văn (số ra tháng Ba năm 1972) khi được hỏi “âm thanh của hai chữ hoà bình gợi lên điều gì cho ông,” thi sĩ Viên
Linh đã trả lời rằng: “Tiếng máy xình xịch
của xe hoả, khói phun trắng xoá đường rầy, để tôi có thể làm như Tản Đà, chán
Sài gòn thì nhẩy tầu ra Hà Nội. Chán Hà Nội thì nhẩy tàu vô Nam. Và dừng lại
chiếc ga xép nơi tôi đã ra đời, đã chơi đùa với con tầu sắt suốt thời niên thiếu:
ga Đồng Văn.”
Tương tự, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã mường
tượng đến một viễn ảnh thanh bình vô cùng cảm động, khiến cho thính
giả phải say lòng: “Khi đất nước tôi
không còn giết nhau. Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường.”
Hơn bốn thập niên sau, sau khi chiến tranh đã
chấm dứt, tuyệt nhiên, vẫn chưa thấy một đứa trẻ Việt Nam nào “đi
hát đồng dao” như dự ước. Vỉa hè của xứ sở này – giờ đây – có chăng
chỉ là những đứa bé đi bán hàng rong, đi bán vé số, đi ăn xin, hay đi
hát dạo kiếm ăn thôi.
Lớp nhi đồng chào đời trước và sau ngày hoà
bình/thống nhất cỡ chục năm (với mộng tưởng được hát đồng dao) nay
đều đã thành nhân. Họ may mắn lớn lên trong một “thế giới đang bị san
phẳng,” và được sở hữu mọi phương tiện truyền thông tân kỳ nên nên dễ
dàng nhận ra được sự tha hoá, bất cập (và bất nhân) của chế độ hiện
hành.
Những người trẻ được mệnh danh
thuộc Thế Hệ A Còng ở Việt Nam, ngày nay, chả ai
còn nhẹ dạ, vô tư và hồn nhiên như
lớp cha anh – ở miền Nam – ngày trước nữa. Ngược lại,
không ít kẻ đang rất bận lòng vì những vấn đề nóng bỏng của quê
hương và đang “khóc cười theo vận nước nổi trôi.”
Xin ghi lại tên tuổi của một số bạn mà tôi
đã được “nghe danh” qua những bản án (“bỏ túi”) ở Việt Nam:
Nguyễn
Xuân Anh, sinh năm 1982, ra tù ngày 7/ 8/ 2013.
Nông
Hùng Anh, 1983, ra tù ngày 5/6 /2014.
Trần
Vũ An Bình, 1974, bị bắt tháng 12 năm 2012,
đang bị giam giữ.
Nguyễn
Vũ Bình, 1968, ra tù ngày 9/6/ 2007.
Nguyễn
Công Chính, 1964, bị bắt ngày 28/ 4/ 2011, đang
bị giam giữ.
Đoàn
Huy Chương, 1985, ra tù lần hai ngày 13/ 2/ 2017.
Nguyễn
Đình Cương, 1981, ra tù ngày 24/12/ 2015.
Đặng
Xuân Diệu, 1979, ra tù ngày 12 /1/ 2017.
Nguyễn
Hữu Quốc Duy, 1985, bị bắt tháng 11 năm 2015,
đang bị giam giữ.
Nguyễn
Văn Duyệt, 1980, ra tù ngày 30/1/ 2015.
Nguyễn
Văn Đài, 1970, bị bắt lần thứ hai ngày 16 tháng 12
năm 2015, đang bị giam giữ.
Lê
Công Định, 1968, ra tù ngày 06/ 2/ 2013.
Nguyễn
Văn Điển, 1983, bị bắt ngày 3/3/ 2017, đang bị giam
giữ.
Lê
Thu Hà, 1982, bị bắt ngày16/ 12/ 2015, hiện đang bị
giam giữ.
Phan Thanh Hải, 1969, ra tù ngày 1/ 9/ 2013.
Phạm Bá Hải, 1968, ra tù ngày 7/ 9 / 2011.
Đỗ Thị Minh Hạnh, 1985, ra tù ngày 26/ 6/ 2014.
Bùi Thị Minh Hằng, 1964, ra tù ngày 11/ 2/ 2017.
Hồ Đức Hoà, 1974, bị bắt ngày 30/ 7/ 2011, đang bị giam giữ
Lê Anh Hùng, sinh năm 1973, bị đưa vào trại tâm thần hôm 24
tháng 1 năm 2013, và được thả ngày 5 tháng 2 cùng năm.
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, 1981, bị bắt tháng 02 năm 2010, đang bị giam
giữ
Vũ Hùng, 1966, ra tù ngày 19/ 8 / 2011.
Việt Khang, 1978, ra tù ngày 14/ 2/ 2015.
Hồ Thị Bích Khương, sinh năm 1967, ra tù ngày 15/1/ 2016.
Lê Thăng Long, 1967, ra tù ngày 10/ 6/ 2012.
Nguyễn Đặng Minh Mẫn, 1985, bị bắt ngày 31/ 7/ 2011, đang bị giam
giữ.
Trần Thị Nga, 1978, bị bắt ngày 21/ 1/ 2017, đang bị giam
giữ.
Phạm Thị Thanh Nghiên, 1977, ra tù ngày 18/ 9/ 2012.
Lê Thị Công Nhân, 1979, ra tù ngày 06/ 3/ 2010.
Trương Duy Nhất, 1964, ra tù ngày 26/ 5/ 2015.
Nguyễn Văn Oai, 1981, ra tù ngày 2/8/ 2015.
Hồ Văn Oanh, 1985, ra tù ngày 16/ 2/ 2014.
Lê Quốc Quân, 1971, ra tù ngày 27/6/ 2015.
Ngô Quỳnh, 1984, ra tù ngày 01/ 07/ 2011.
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, 1979, bi bắt ngày 10/10/ 2016, đang bị giam giữ.
Lê Văn Sơn, 1985, ra tù ngày 3/ 8/2015.
Phạm Hồng Sơn, 1968, ra tù ngày 30/8/ 2006.
Tạ Phong Tần, 1968, ra tù ngày 19/09/2015.
Vũ Quang Thuận, 1966, bị bắt ngày 3/3/ 2017, đang bị giam giữ.
Nguyễn Thị Minh Thúy, 1980, bị bắt tháng 5 năm 2014, đang bị giam
giữ.
Trần Thị Thúy, 1971, bị bắt tháng 8 năm 2010, đang bị giam
giữ.
Trần Huỳnh Duy Thức, 1966, bị bắt ngày 24/5/ 2009, đang bị giam giữ.
Nguyễn Trung Tôn, 1972, ra khỏi tù ngày 15/01/2013.
Lê Thanh Tùng, 1968, bị bắt lần thứ hai ngày 24/12/2015, đang
bị giam giữ.
Phạm Văn Trội, 1972, ra tù ngày 1/9/2012.
Nguyễn Bắc Truyển 1968 ra tù ngày 17/5/2010.
Nguyễn Tiến Trung, 1983, ra tù ngày 12/4/2014.
Lê Trí Tuệ, 1978, biệt tích từ ngày 17/05/2007.
Huỳnh Anh Trí,1971, ra tù ngày 29/12/2013, từ trần ngày
5/0/2014.
Huỳnh Anh Tú, 1968, ra tù ngày 29/12/2013.
...
Tôi vô cùng tiếc vì trí nhớ đã bạc nhược nên
đã không ghi chép được tuổi của tất cả các bạn đã (và đang) phải
chịu cảnh giam cầm, ở khắp mọi nơi. Đó là chưa
kể đến vô số những nhân vật khác, những công dân Việt Nam đang bị bạo
quyền quấy nhiễu hay đe doạ đến mạng sống (hàng ngày) chỉ vì bầy
tỏ nỗi bận tâm đến sự an nguy của tổ quốc.
Vì sự giới hạn của một bài báo ngắn chúng
tôi không thể (và có lẽ cũng không cần thiết) nêu danh của hết thẩy
mọi người trong những trang sổ tay bé bỏng này. Chỉ xin được ngỏ lời
chân thành cảm ơn các bạn đã giúp chúng tôi, những công dân lão
hạng, cảm thấy được an tâm (hơn) khi nghĩ đến tương lai đất nước.
S.T.T.D
Tưởng Năng Tiến