Nhân Tuyên bố Về Chủ quyền Biển Đảo Quốc
gia Việt Nam của Công dân và Các tổ chức Xã hội Dân sự Việt Nam Ngày 27 tháng 6
năm 2017, chúng tôi xin đăng lại bài viết của Nhà văn Hoàng Quốc Hải, công bố
ngày 12 tháng 8 năm 2012:
ÂM MƯU ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG, TỪ THAM VỌNG ĐẾN CUỒNG VỌNG
Nhà
văn Hoàng Quốc Hải
Nhà văn Hoàng Quốc Hải,
tác giả hai bộ tiểu thuyết lịch sử “Tám triều vua Lý’ và “Bão táp triều Trần”,
gồm 10 tập, 6.500 trang. Chúng ta có thể “gặp” tại đây những sử liệu phong phú ở
rất xa nhau, trong chính sử và sử ký Trung cộng/ Việt Nam; sách thực lục mỗi thời,
lịch triều loại chí hay dẫu chỉ là dã sử nằm rải rác trong ký ức dân tộc, ký ức
kẻ thù. Có thể hình dung, với một nhãn quan sắc sảo trời cho, với một
tấm lòng yêu nước sâu nặng và mẫn tiệp, mọi kho sử liệu Việt – Trung
đã bị ông lục tung,chọn lựa rồi sắp đặt dưới ánh sáng lương trí; Ông trở thành
một thẩm quyền khả dĩ bàn bạc, cắt nghĩa thấu đáo về việc Việt Nam nắm giữ chủ
quyền liên tục xuyên 3 thế kỷ trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đồng thời
chứng minh một cách thuyết phục “đường 9 đoạn” do Trung cộng tự vẽ là hoàn toàn
phi lịch sử, phi lý,phi pháp và phi đạo đức cùng những hành xử hung hăng, côn đồ
của Trung cộng tại Biển Đông mấy năm vừa qua.
Nhân sự kiện Tòa Trọng tài Thường trực (PCA
) Liên Hiệp Quốc vừa tuyên xử vụ Nhà nước Phi Luật Tân kiện Trung cộng, chúng
tôi đăng lại bài viết còn nguyên giá trị so với tình hình thời sự hiện nay của
nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhằm giúp bạn đọc theo dõi sự kiện lịch sử
này một cách có hệ thống.
Trung cộng (*) nói, Trung cộng làm.
Việc Trung cộng đưa một đoàn tàu cá hùng hậu ( cũng
có thể là tàu hải quân trá hình) diễu võ dương oai trong vùng biển thuộc
chủ quyền của nước ta, thực chất là một hành vi khiêu khích nghiêm trọng. Điều
trớ trêu là Trung cộng vừa ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông ( cấm trái
phép cả trên vùng biển của Việt Nam) từ 16 tháng 5 năm 2012 đến 1
tháng 8 năm 2012 thì 12 tháng 7 năm 2012 chính họ lại vi phạm cái gọi là “ lệnh
cấm” đó. Điều này chứng tỏ cái mà Trung cộng nói hoàn toàn trái ngược
với cái mà Trung cộng làm. Đoàn tầu cá 29 chiếc vỏ thép, mỗi tầu 140 tấn cùng với
tầu hậu cần kiêm chỉ huy 3.000 tấn được chia thành 2 biên đội 6 tốp, hình thành
một hạm đội đánh bắt. Thực chất đây là một cuộc diễn tập quân sự trá hình, và
cũng là đòn cân não nắn gân đối phương.
Còn việc Công ty dầu khí ( CNOOC) Trung cộng mời thầu
9 lô dầu khí nằm sâu trong thềm lục địa Việt Nam, lô gần nhất chỉ cách đảo Phú
Quý 50km, đó không còn là hành vi khiêu khích, mà nó nằm trong âm mưu thôn tính
thuộc về quốc sách của Trung Hoa xuyên suốt từ cổ đại tới nay. Cần lưu ý rằng
giữa ta và Trung cộng cùng các nước như Mã Lai, Phi Luật Tân, Brunei chưa đàm
phán để xác định vùng chống lấn. Chỉ vùng chống lấn đó mới gọi là vùng tranh chấp.
Còn việc Trung cộng cho ngư dân vào đánh bắt cá và mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng thuộc quyền chủ quyền tức vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành vi xâm lấn, nếu chưa muốn nói là xâm lược. Đó là một âm mưu thâm độc, tạo ra tranh chấp trong vùng không có nhân tố tranh chấp rồi đòi thương lượng. Thật chả khác chuyện cổ tích kể về một con Sói trong lúc đói rét xin đặt nhờ một chân vào nhà Thỏ để sưởi ấm. Khi đặt được một chân, Sói dùng toàn thân xô cửa vào nhà, liền đó đuổi Thỏ đi và nhận đó chính là nhà của mình. Thỏ cãi lại, Sói chồm lên cắn chết Thỏ rồi ăn thịt.
Còn việc Trung cộng cho ngư dân vào đánh bắt cá và mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng thuộc quyền chủ quyền tức vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành vi xâm lấn, nếu chưa muốn nói là xâm lược. Đó là một âm mưu thâm độc, tạo ra tranh chấp trong vùng không có nhân tố tranh chấp rồi đòi thương lượng. Thật chả khác chuyện cổ tích kể về một con Sói trong lúc đói rét xin đặt nhờ một chân vào nhà Thỏ để sưởi ấm. Khi đặt được một chân, Sói dùng toàn thân xô cửa vào nhà, liền đó đuổi Thỏ đi và nhận đó chính là nhà của mình. Thỏ cãi lại, Sói chồm lên cắn chết Thỏ rồi ăn thịt.
Cũng cần nói rõ: Hầu hết
các nước có chung biên giới với Trung cộng đều bị Trung cộng gây hấn và bị mất
đất về tay Trung cộng. Hùng mạnh như nước Ấn Độ mà năm 1962, Trung cộng
gây ngòi làm bùng nổ cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn. Kết thúc
chiến tranh, Trung cộng chiếm được của Ấn Độ 50.000 km2. Cho tới nay Ấn Độ luôn
đòi lại vùng đất bị Trung cộng chiếm mà vẫn chưa đòi nổi một xăng ti mét, và hận
thù giữa hai nước Ấn – Trung vẫn chưa có cách nào hóa giải.
Lấy
ngay như nước ta làm ví dụ. Rõ nhất
là cổng Nam Quan giáp với Đồng Đăng
của nước ta. Cổng đó được người Trung Hoa xây từ thời nhà Minh thế kỷ
15. Trải 5 thế kỷ nó vẫn tồn tại trấn giữa một đường biên dài và không sảy ra
tranh chấp. Nhưng qua cuộc chiến tranh xâm lược của Trung cộng đánh Việt Nam
vào tháng 2 năm 1979, tới nay chiếc cổng đó đã nằm sâu trong đất của họ và cách
đường biên giới tới mấy trăm mét. Và người Trung cộng lý sự rằng Hiệp ước Pháp
– Thanh phân định biên giới, việc đo đạc không chính xác! Và lại Hiệp ước Pháp
– Thanh thì mãi 1885 mới ký, chẳng có liên quan gì đến biên giới trước đó gần 5
thế kỷ. Hoặc bãi Tục Lãm trên sông Bắc Luân huyện
Móng Cái (Quảng Ninh), Thác Bản Giốc
thuộc huyện Trùng Khánh ( Cao Bằng), trước chiến tranh biên giới năm
1979, nó hoàn toàn thuộc phần đất của Việt Nam, không hề có tranh chấp. Ấy thế
mà sau chiến tranh biên giới, Trung cộng nhận chằng là của họ. Trên phương diện
quốc gia, họ cù nhầy, cò cưa và gây căng thẳng trên nhiều tuyến biên ải, tới
khi “Bãi Tục Lãm” chia đôi, “Thác Bản Giốc” chia đôi. Sự cực kỳ phi lý ấy, thử
hỏi có khác gì chuyện con Sói xin sưởi nhờ một chân trong nhà Thỏ?
Trở lại vấn đề Biển Đông tức Trường Sa, Hoàng Sa của
Việt Nam. Theo Công ước về Luật biển UNCLOS của Liên Hiệp Quốc 1982 mà Trung cộng
và Việt Nam đều ký kết, thì vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường lãnh hải
của mỗi quốc gia ven biển, là quyền tài phán thiêng liêng bất khả xâm phạm của
quốc gia đó. Ấy thế mà Trung cộng nhảy vào tận sân nhà người ta mà cãi cối, nhận
bừa theo kinh nghiệm truyền đời trên đất liền của họ với mục tiêu là tạo ra
vùng tranh chấp. Sự phi lý đến hoang tưởng, có những vùng Trung cộng đòi chủ
quyền cách xa đường bờ biển của họ tới 2000 km. Hoặc như bãi cạn Scarborough nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân cách đất liền có hơn 230 km,
trong khi đó cách đảo Hải Nam của Trung cộng tới hơn 950 km mà Trung cộng nhận
đó là biển của mình.
Việc bất minh này nếu các nước bị TC xâm
lấn không làm quyết liệt, vạch trần sự gian dối đến liều lĩnh , sự ngạo mạn đến
trơ trẽn về mặt pháp lý và cả đạo lý cho nhân dân Trung cộng và toàn thế giới
biết, chắc sẽ dẫn đến hậu quả tai hại về mặt chủ quyền. Và
nếu điều đó sảy ra thì không chỉ mắc tội với tổ tông mà còn đến muôn đời hậu thế.
Về đường lưỡi bò trên Biển
Đông.
Từ trước năm 1946, trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không có yếu tố nước ngoài mà chỉ có người Việt
Nam chiếm hữu từ thế kỷ 17, tới cuối thế kỷ 19, người Pháp
xâm chiếm Việt Nam thì quyền chiếm hữu hai quần đảo này thuộc về người
Pháp, họ thay mặt chính phủ Nam triều quản lý.
Năm 1939, quân Nhật đổ bộ lên chiếm một phần quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam và hàng loạt các đảo Bành Hồ, Mã Tổ, Đài Loan, Hải Nam của
Trung cộng,vừa làm bàn đạp tấn công lục địa Trung Hoa, vừa khống chế bờ tây
Thái Bình Dương , đối chọi với Mỹ đang thống lĩnh bờ đông Thái Bình Dương.Trong
những năm chiếm đóng Hoàng Sa,người Nhật đã tiến hành khai thác phân giơi,nghe
nói phân giơi vừa có tác dụng làm phân bón,vừa tách được nguyên liệu chế tạo
thuốc nổ.Thời gian quân Nhật chiếm đóng Hoàng Sa, thì phía người Pháp cả người
Việt vẫn điều hành trạm khí tượng và cây đèn biển trên quần đảo này. Năm 1945
các nước phát xít Đức – Ý – Nhật đầu hàng đồng minh, Trung Hoa dân quốc do Tưởng
Giới Thạch đứng đầu nằm trong thành phần của Đồng Minh, nên được phân công giải
giáp quân đội Nhật, trong đó có phần lãnh thổ Bắc Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Đến đầu năm 1950, quân Trung Hoa dân quốc đã rút lui
khỏi vùng đảo này. Còn đồn binh của quân Pháp vẫn đóng trụ trên quần đảo Hoàng
Sa. Tuy nhiên đầu năm 1956, Trung Hoa dân quốc lại chiếm đảo Ba Bình thuộc
Trường Sa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa; cả hai
bên Trung Hoa đều chiếm đóng trái phép một phần lãnh thổ do Việt Nam quản lý
liên tục suốt từ thế kỷ 17.
Đường 9 đoạn trên bản đồ do Trung cộng vẽ hiện nay
là kế thừa đường 11 đoạn do một công chức có tên Bai Meichu thuộc chính quyền
Trung Hoa dân quốc tự vẽ ra từ năm 1947, nghĩa là từ sau khi họ tiếp quản phần
đất mà người Nhật thua trận để lại.
Lai lịch tấm bản đồ này rất mơ hồ, không có xuất xứ
lịch sử, không có giới hạn địa lý theo kinh độ, vĩ độ và tọa độ. Sở dĩ hiện nay
còn có 9 đoạn là do 2 đoạn trùm lên Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, sau khi đã phân
chia giữa Việt Nam và Trung Hoa thì người Trung Hoa lại tự xóa đi 2 đoạn.
Trung cộng không hề có một bằng chứng lịch
sử nào khả tín như sử sách của họ có ghi chép cụ thể về hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, hoặc có thực tế chiếm hữu và khai thác; hoặc chí ít
là bia chủ quyền; điều có thể thuyết phục nữa là bản đồ hành chính hoặc bản đồ
địa lý quốc gia. Tất cả những yếu tố tối thiểu để chứng minh quyền làm chủ của Trung
cộng trên hai quần đảo này là số không. Mà tất cả chỉ là những căn cứ vu vơ .
Ví như: “ Trung cộng đã hành xử chủ quyền
biển Nam Trung Hoa từ thời nhà Tống (960-1279). Hoặc “ Thời Minh Vĩnh Lạc (1403
-1427) hạm đội của Trịnh Hòa đã đi khảo sát tại vùng biển Đông Nam Á….”
Đúng là Trịnh Hòa có đem quân đi giễu võ dương oai tại
vùng Đông Nam Á, nhưng không vẽ được bản đồ, không có dấu ấn gì ghi chép tại mấy
nước này. Trái lại, khi quân của Trịnh Hòa tiến vào Trảo Oa (Java) bị dân địa
phương đánh đuổi, giết chết tới 170 người Trung Hoa, khiến Trịnh Ḥòa phải tháo
lui. Và sang đời Minh Tuyên Đức thì nhà Minh phải bãi bỏ chương trình rất tốn
kém của Trịnh Hòa.
Còn như “Hoàn Cầu thời báo” nói: “ Trung Hoa đã hành xử chủ quyền biển Nam Trung Hoa từ thời
nhà Tống” thì quả là họ nói liều, và họ chả hiểu gì về lịch sử
cha ông họ.Ta nhớ, trước cuộc xâm lăng Đại Việt năm 1076,triều đình nhà Tống
bàn đến nát nước. Các đại thần nhà Tống rất sợ giao chiến với người Giao Chỉ
(xưa họ gọi nước ta là xứ Giao Chỉ). Lễ bộ thị lang Vương Thiều đã tranh biện kịch
liệt với bọn người hiếu chiến và khẳng định: “Chớ nên gây việc binh đao với người Giao Chỉ”. Còn Triều
Bổ Chí, một văn quan dâng sớ trần tình mọi nhẽ can ngăn Tể tướng
Vương An Thạch và Tống Thần Tông chớ nên gây chiến với người Giao Chỉ. Bởi người
Tống không quen thuộc đường biển. Ông nói: “ Quân Tống nhát sóng, hơi
có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến đấu làm sao? Còn người Giao Chỉ, họ giỏi
thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đục thuyền địch lật
úp. Đỗ Mục nói họ có kẻ đi chìm dưới đáy bể tới 50 dặm mà không thở….”. Thật
vậy, từ cổ xưa Trung Hoa vốn là một quốc gia lục địa, thế mạnh của họ là kỵ
binh và phòng thủ của họ là thành cao, hào sâu. Tổ tiên của họ chưa bao giờ mơ
ước , và dám mơ ước tới việc vươn ra biển, nói chi tới việc hành xử chủ quyền.
Phải nói nhà Tống là một thời đại yếu hèn, hết bị nước
Kim đến nước Liêu, nước Hạ chèn đánh. Nhà Tống vừa phải cắt đất cầu hòa, vừa phải
triều cống hằng năm cho các nước nhỏ bé này. Vua Tống còn bị Vua nước Kim bắt
phải tôn gọi là bá phụ, trong khi Kim Thái tông mới có 12 tuổi. Sự
suy thoái triền miên ấy dẫn toàn bộ nước Trung Hoa vào vòng thống trị của người
Mông Cổ tới ngót trăm năm. Trận quyết chiến cuối cùng năm 1279, quân
Mông Cổ dìm chết 10 vạn quân Tống trong vùng biển Nhai Sơn, tức vùng biển Hải
Nam tỉnh Quảng Đông ngày nay. Tể tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua Tống
nhảy xuống biển tự tử.
Thử hỏi một đất nước
yếu, hèn như thế làm sao mà “ hành
xử chủ quyền” được trên “ biển Nam Trung Hoa”?!
Lịch sử chiếm hữu và thực
thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mới đây tiến sĩ Hán – Nôm Mai Ngọc Hồng vừa hiến Bảo
tàng lịch sử Việt Nam tấm bản đồ lãnh thổ Trung cộng Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do
nhà xuất bản Thượng Hải ấn hành năm 1904
ghi rõ cực Nam của Trung Hoa là đảo Hải Nam.
Nên nhớ đây là bản đồ Địa
dư toàn đồ, nên không có thể nhầm lẫn hoặc bỏ sót một địa danh nào.
Và lại nhóm làm bản đồ gồm có các học giả nổi tiếng của
Trung Hoa và các chuyên gia phương Tây hợp tác. Thêm vào đó sách “ Trung cộng địa lý giáo khoa thư”
biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 có ghi “phía Nam từ vĩ độ Bắc 18 độ 13’ tận cùng là bờ
biển Nhai Châu (Hải Nam)…Vậy là cả bản đồ chi tiết về lãnh thổ và
sách giáo khoa của người Trung Hoa đều xác nhận Hải Nam là đất tận cùng giáp biển.
Tuyệt nhiên không thấy có tên Hoàng Sa và Trường Sa xuất hiện trên bản đồ này.
Cái tên Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (
Trường Sa) mới chỉ xuất hiện trên thư tịch Trung cộng từ năm 1947.
Và mãi đến năm 1980 ngày 30 tháng 1, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới lần đầu
tiên đưa ra văn kiện có hệ thống đầy đủ của Bộ ngoại giao về chủ quyền của Trung
cộng đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà phía Trung cộng
gọi là Tây Sa và Nam Sa, trong khi Việt Nam đã chiếm hữu và khai
thác liên tục từ thế kỷ 17 cho tới khi Trung cộng dùng vũ lực cưỡng chiếm.
Thật ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, Việt Nam chỉ gọi một cái tên chung là Hoàng Sa tức là đảo cát
vàng, hoặc Vạn lý Trường Sa (bãi cát dài vạn dặm).
Ta có thể tham khảo thêm một số bản đồ cổ của Trung
cộng như “Dư địa đồ”- bản đồ Trung cộng vẽ đời Nguyên của Chu Tự Bản, được
thu nhỏ trong sách “ Quảng dư đồ” quyển 1 của La Hồng,
biên soạn năm 1561, phần cực nam lãnh thổ của Trung cộng ghi là đảo Hải Nam.
Trong “ Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ”
quyển 1 của Trần Tổ Thụ đời Minh, soạn năm 1635, phần lãnh thổ cực Nam của Trung
cộng ghi là đảo Hải Nam.
Trong danh mục bản đồ các đời mà Trung cộng vẽ hiện
lưu giữ trong “ Bắc Kinh tứ khố” còn vô vàn, nhưng cũng chả có một chiếc nào đả
động đến Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hoặc Tây Sa và Nam Sa như Trung cộng
gọi.
Trên đây tôi chỉ nêu 3 tấm bản đồ tiêu biểu của Trung
Hoa do người Trung Hoa vẽ qua các thời Nguyên , Minh, Thanh từ thế kỷ 14 đến đầu
thế kỷ 20. Ngoài ra còn vô số các bản đồ do các nhà truyền giáo phương Tây ,
các nhà thám hiểm, nhà buôn vẽ đều ghi nhận đảo Cát Vàng thuộc về nước Đại Nam.
Vài
chứng cớ nữa nói lên Trung cộng thừa nhận đảo Cát Vàng (Hoàng Sa) là
của Việt Nam.
Vào năm 1895
tầu Bellona của Đức bị vấp đá ngầm và
chìm tại quần đảo Hoàng Sa, đánh tín hiệu cấp cứu cho Hải Nam mà không được đáp
ứng, Trước đó năm 1890 tầu Himeji của Nhật Bản cũng bị đắm ở Hoàng Sa, gởi tín
hiệu cho Hải Nam đều không được phía Trung Hoa cứu hộ. Trái lại ngư dân của họ
từ đảo Hải Nam ra hôi của như đồng và các hàng hóa khác. Nhân hai sự vụ này,
Chính phủ Anh gởi công hàm phản kháng. Phía Trung Hoa
tuyên bố chính thức quần đảo này không thuộc về Trung cộng.
Xa hơn nữa trong “Phủ biên tạp lục” nhà bác
học Lê Quý Đôn có đoạn viết: “
Tôi đã từng thấy có một đạo công văn của quan chánh đường, huyện Văn Xương, Quỳnh
Châu ( đảo Hải Nam) gửi cho Thuận Hóa nói rằng: “Năm
Kiền Long thứ 18 (1758- tương đương với thời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng Trong)
có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi
nước An Nam, ngày 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ , có 8 tên lên bờ tìm
kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió giật đứt dây, thuyền dạt vào Thanh Lan cảng,
quan ở đây xét thực đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận
Hóa là Thúc Lương hầu làm thư trả lời.”
Việt Nam có vô vàn tài liệu ghi chép rất
cụ thể ngày
tháng năm Chúa Nguyễn, sau này là các vua triều Nguyễn sai lập Hải đội Hoàng Sa
trong đó có nhiều việc như đo đạc các đảo, đo đạc thủy
triều, hướng gió , lập miếu thờ thần, trồng cây dựng bia chủ quyền, khai thác
các hải sản quý như hải sâm, đồi mồi … Thu gom các hàng hóa và vật dụng do các
tầu thuyền nước ngoài gặp nạn dạt vào đảo . Quý hơn nữa là các châu bản
ví như các chiếu, cáo, dụ, sắc có chữ ký và con dấu của nhà vua sai phái công
việc ở Hoàng Sa, hoặc các biểu tấu của mấy tỉnh ven biển miền Trung tâu báo về
công việc có liên quan đến Hoàng Sa được nhà vua phê duyệt và ký. Cũng có nhiều
sắc khen đến Hải đội Hoàng Sa hoặc các cá nhân mẫn cán có công trong Hải đội
Hoàng Sa này được vua ban tặng. Những bản đó gọi là châu bản, hiện còn lưu trữ
khá nhiều,và các giấy tờ được vua ban khen, các gia đình gìn giữ như bảo vật
truyền gia cũng không phải là hiếm.
Ngoài ra còn các tài liệu do người Pháp
đo đạc, khảo sát trên hai quần đảo này từ năm 1933,
kể cả nhật ký của những người Pháp người Việt làm việc trên đảo này từ trước đến
ngày 20 tháng 1 năm 1974, là ngày quân xâm lược Trung cộng dùng lực lượng hải
quân áp đảo cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay quân lực Việt Nam Cộng
Hòa.
Phần nữa là các ghi chép, kể cả bản đồ do
người ngoại quốc viết và vẽ về quần đảo Hoàng Sa. Chỉ
tiếc trong tay ta có cả đống tư liệu vô cùng phong phú, mà không hiểu do cản trở
gì lại không được phổ cập trong các trường học và cho người dân Việt Nam đều được
biết trọn vẹn về hình hài Tổ quốc mình . Hơn nữa còn làm
tài liệu cho nhân dân thế giới biết được thực hư, phải trái. Nếu không cứ để
cho người Trung Hoa nói bừa, nói bậy rồi tới lúc lộng giả thành chân, ta có hối
cũng không kịp.
Tài liệu lịch sử thì nhiều, không thể trích hết ra
đây được, tôi chỉ xin giới thiệu 2 bản sách phổ cập nhất là “Phủ
biên tạp lục” quyển 1 của học giả Lê
Quý Đôn có nói kỹ về phủ Quảng Ngãi và đảo Cát
Vàng ( Hoàng Sa).
Thứ nữa là sách “Đại Nam nhất thống chí”
do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, Viện sử học dịch, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
xuất bản gồm 5 tập. Trong đó tập 2, quyển 8 là phần Tỉnh
Quảng Ngãi, mục “Núi sông” có nói về “ Đảo Hoàng Sa” cuối sách phần phụ lục, lại
nói riêng về “quần đảo Hoàng Sa”.
Lại nữa, các sách Đại Nam thực lục; Lịch triều hiến
chương loại chí; Việt Nam hội lệ sự điển; Việt sử thông giám cương mục…
đều có nói khá kỹ về quần đảo Hoàng Sa.
Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn có đoạn ghi như
sau: Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển
về phía đông bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng
biển từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi
có chỗ suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm bằng phẳng
rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng
nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không chạy. Bên bãi vật lạ rất
nhiều. Ốc vân có ốc tai voi to như chiếc chiếu, có ốc xà cừ để khảm đồ dùng, đồi
mồi thì rất lớn…
Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu
ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt Hải đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã Yên Vĩnh
sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6
tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy
tha hồ bắt chim , bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu ( các tàu buôn bị đắm)
như là gươm, hoa bạc,tiền bạc, hòn bạc, đồ uống, khối thiếc, khối chì, sừng,
ngà voi…..đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp (Phủ
biên tạp lục tập 1, trang 119-120 nhà xuất bản Khoa học xã hội 1977).
Và sách Đại Nam nhất thống chí tập
2 trang 369-370 ghi: Đảo Hoàng Sa ở phía đông cù lao Ré huyện Bình Sơn
từ bờ biển Sa Kì đi thuyền ra thuận gió thì độ 3 – 4 ngày đêm có thể đến nơi .
Có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc mấy trống canh.
Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết hàng mấy ngàn dặm, bằng
phẳng rộng rãi tục gọi “ Vạn Lý Trường Sa”…..
Hồi đầu bản triều đặt đội Hoàng Sa có 70
người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm hải
vật, đến tháng 8 thì do cửa biển Tư Hiền về nộp; lại đặt đội Bắc Hải do đội
Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy hải vật ở các đảo
phía đông đảo Hoàng Sa gần phủ Quỳnh Châu đảo Hải Nam nước Thanh ( tức Trung cộng
). Đầu đời Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ.
…Năm Minh Mệnh thứ 16 (1836) sai thuyền
công, chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra
hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và phía sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá
đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân.
Qua đây, ta biết từ thời các Chúa Nguyễn đến
các triều đại nhà Nguyễn việc quản lý Hoàng Sa đều do Nhà nước chỉ huy, trong
đó có việc đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia, gieo hạt, trồng cây và khai
thác sản vật.
Tất cả những yếu tố trên là đầy đủ các điều
kiện chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục mà Ủy ban pháp luật của Liên Hiệp
Quốc soạn thảo trong Công ước về Luật biển UNCLOS 1982.
Phía Trung cộng nằm mơ cũng không có được một dòng chứng tích để làm chứng lý
cho việc xác lập chủ quyền chiếm hữu.Vì thế họ cứ nói đại Trung Hoa đã hành xử
chủ quyền trên biển Nam Trung Hoa từ đời Hán , đời Đường. Thấy không thuyết phục
được ai, lại nói “chủ quyền lịch sử”… Chung quy là lý luận của quân xâm lược mà
ngay những người Trung Hoa chân chính cũng phản đối.
Trở lại vấn đề Trung cộng chiếm hữu một phần Hoàng Sa một cách bất hợp pháp từ năm
1956. Trên thực tế năm 1956 Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đang
quản lý cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho tới tháng 1 năm
1974, Trung cộng huy động một lực lượng lớn hải quân cưỡng chiếm phần còn lại của
quần đảo Hoàng Sa từ tay quân lực của Việt Nam Cộng Hòa.
Và tới tháng 3 năm 1988, lại vẫn với thủ đoạn dùng lực lượng áp đảo
bất ngờ một cách hết sức dã man và tàn bạo, Trung cộng lại chiếm đảo đá Gạc Ma
từ tay Quân đội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau đó quân xâm lược
chiếm thêm các đảo Đá chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ren, Đá Tư Nghĩa, Đá
Subi…Cho tới lúc cướp được mấy đảo này,TC mới thực biết đến Trường Sa.
Sự có mặt của Trung cộng trên 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thực chất là một cuộc xâm chiếm đất đai đúng
nghĩa. Đúng
nghĩa nhất là quân xâm lược Trung cộng đã cưỡng chiếm Hoàng Sa và một phần Trường
Sa. Và đất đai cướp đoạt không thể thực thi chủ quyền, bởi không có luật lệ nào
cho phép .
Trung cộng chỉ được sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, nay tuyên bố
chủ quyền tới 90% Biển Đông, tức hơn 3 triệu cây số vuông, khiến
các nước cùng chung Biển Đông phản ứng quyết liệt. Không chỉ Việt Nam mà cả Phi
Luật Tân, Mã Lai và Brunei cũng khẳng định chủ quyền theo Công ước UNCLOS về Luật
biển của Liên Hiệp Quốc.
Một trong những khẳng định chủ quyền mạnh mẽ của Việt
Nam là ngày 21 tháng 6 năm 2012 Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật biển, trong đó khẳng định Hoàng Sa
và Trường Sa là của Việt Nam, đó là việc quá bình thường đối với một quốc
gia có chủ quyền. Trung cộng cũng công bố Luật biển của nước họ từ năm 1992.
Ngay điều 1 của Luật biển Việt Nam đã khuyến cáo trong quá trình thi hành có điều
gì không phù hợp với Công ước Luật biển UNCLOS của Liên Hiệp Quốc sẽ lập tức tu
chỉnh. Việc làm này tỏ rõ thiện chí của Việt Nam là hòa hợp, là tôn trọng luât
lệ quốc tế và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên điều đó khiến Trung cộng không hài lòng.
Quốc hội Trung cộng ngay lập tức đòi Việt Nam phải hủy
bỏ hoặc sửa chữa Luật biển của nước mình. Bộ ngoại giao Trung cộng triệu đại sứ
Việt Nam ở Bắc Kinh đến phản đối về Luật biển Việt Nam. Đó là sự can thiệp trắng
trợn đến chủ quyền của nước khác.
Thực hiện kế hoạch thôn tính Biển Đông, Trung
cộng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa,
và xây trụ sở hành chính một cách bất hợp pháp trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Nay lại dựa trên quyết định sai trái
đó để lấy nó làm căn cứ gọi là khu phòng thủ Tam Sa. Thật là một bước leo thang
nguy hiểm. Hơn thế nữa, Trung cộng cho Tam Sa là tiền tuyến của Bắc Kinh trong
trận chiến Nam Hải, và triển khai quân đồn trú cấp phân khu và trực thuộc hạm đội
Nam Hải. Hiện họ đang khởi động đưa một đoàn tầu cá khổng lồ với 23 nghìn tầu tới
các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đánh bắt. Lại kêu gọi vũ trang cho
100.000 ngư phủ trở thành đội quân mạnh nhất, hơn bất kỳ lực lượng vũ trang của
bất cứ nước nào đang tranh chấp biển đảo với họ. Với các hành động mang tính cơ
bắp, rõ ràng Trung cộng đang chuẩn bị chiến tranh ăn cướp.
Trong khi đó nhà cầm quyền Trung cộng luôn tuyên bố
rằng họ phản đối dùng vũ lực, và củng cố tình hữu nghị, củng cố lòng tin trên
cơ sở 16 chữ vàng và 4 tốt. Sự thực đây chỉ là chiêu bài lừa mị nhân
dân Việt Nam và dư luận thế giới, kỳ thực họ đang chuẩn bị cho một âm mưu cực kỳ
thâm độc và nguy hiểm để chiếm trọn Biển Đông với bất cứ giá nào.
Song song với hành động hung hăng và hiếu chiến này,
các trang mạng và báo chí Trung cộng đang kích động chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, đổ lỗi cho các nước, đặc biệt là Việt Nam và Phi Luật
Tân suốt từ năm 2009 tới nay, báo chí Trung cộng không ngớt lời công
kích Việt Nam với lời lẽ ngày càng hiếu chiến , và dường như nó không còn nằm
trong hệ ngôn ngữ ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào có một chút văn minh nữa.
Ví như tờ “Hoàn cầu thời báo” thuộc tờ Nhân dân nhật báo của Đảng Cộng sản
Trung cộng từng viết bài đe dọa Việt Nam rồi hô hào: “ Sát Việt khấu vi
Nam Sa chi chiến tế kỳ” ( giết giặc Việt để làm lễ
tế cờ trong trận chiến Nam Sa ). Sau đó bài này được đưa lên trang mạng Trung
cộng.
Khơi gợi lại hận thù xưa, công khai thú nhận tội ác
của nhà cầm quyền Trung cộng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17
-2-1979, mạng quân sự milchina.com tháng 1 năm 2011 đã đăng thư của
một cựu chiến binh còn sống sót trong cuộc xâm lăng đó. Tôi chỉ
trích một đoạn ngắn.
“Mục đích của cuộc chiến tranh này là
tàn phá hủy hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ
nên sau 2 ngày đánh nhau bộ đội của ta chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là
không bắt tù binh không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ …” .
Tự thân lời thú tội này đã nói lên tất cả dã tâm của chính quyền Bắc Kinh.
Trung cộng thường tuyên bố “ Trỗi dậy
trong hòa bình” và là một quốc gia có trách nhiệm, nhưng lời lẽ thì
hiếu chiến mà hành động thì thuần gây hấn với các nước láng giềng.
Cái đám tầu cá hung hăng kia liệu có đúng là dân ngư phủ hay là bọn thám báo,
biệt kích đã được huấn luyện kỹ càng. Chúng hết gây sự với Việt Nam lại đến Nhật
Bản, Hàn Quốc… Ngay tàu thăm dò Impecable của Mỹ cũng bị cái đám tàu cá này quấy
nhiễu.Tổng hợp các hành động ngạo mạn cho thấy một Trung cộng đang trỗi dậy thật
sự. Nhưng là sự trỗi dậy theo cách học đòi làm sen đầm quốc tế. Và với thái độ
ngông ngạo muốn làm bá chủ thế giới thật sự. Mới đây đọc trên mạng thấy đăng
bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền,
nguyên Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Bài này có tựa
đề “ Sử dụng vũ khí sinh học quét sạch nước Mỹ, bá chủ thế giới”.
“ … Chỉ có thể sử dụng loại vũ khí không
hủy diệt nhưng có khả năng giết nhiều người chúng ta mới có thể
giành lấy nước Mỹ cho chúng ta.
….Chúng ta có khả năng đạt được mục tiêu
quét sạch nước Mỹ một cách hoàn toàn bất ngờ, khi đồng chí Đặng Tiểu B́nh c̣òn
sống, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn, là
không phát triển các nhóm tàu sân bay và thay vào đó tập trung vào phát triển các
loại vũ khí có thể thủ tiêu hàng loạt dân chúng của nước thù địch.
Xét về mặt nhân đạo, chúng ta cần phải cảnh
báo cho dân chúng Mỹ và thuyết phục họ phải rời khỏi nước Mỹ và để lại vùng đất
họ từng sinh sống trên đó cho người Trung cộng. Hoặc ít nhất họ phải rời khỏi một
nửa nước Mỹ để nhường phần đất đó cho người Trung cộng.
Bởi phát hiện ra nước Mỹ đầu tiên là người Trung cộng.” ( Nguồn báo Đất
Việt 7-7-2012, Nguyễn Hữu Quý).
Thảo nào với Hoàng Sa, Trường Sa của ta, họ bảo họ
đã nhìn thấy trước và đã lưu vào sử sách từ đời Hán, đời Đường.
Qủa nhiên đây không còn là tham vọng nữa mà là cuồng
vọng.Trung cộng sẽ phải gánh chịu hậu quả cay đắng.
Nước Trung Hoa có truyền thống văn hiến
lâu đời,
từng sản sinh ra các học thuyết triết học vĩ đại, cống hiến đáng kể vào kho
tàng tri thức và nền văn minh nhân loại . Cùng với hơn 1 tỷ dân, trong đó biết
bao các học giả, biết bao nhà trí thức đạt tầm cao nhân loại, không dễ gì bị
các nhà dân tộc chủ nghĩa mù quáng và hiếu chiến lừa dối được. Vì vậy giới học giả Trung Hoa đã cất lên tiếng nói nhân văn
một cách dũng cảm, công bằng và khoa học.
Học giả Chu Hạo
, chuyên viên của Viện Quan hệ quốc tế Bắc Kinh viết trên tờ China Daily vào
ngày 6-7-2012: “Điểm nóng tranh chấp trên Biển Đông đã làm xấu đi hình ảnh của
Trung cộng trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt từ 2010 tới nay… Nếu tiếp tục chính sách ngoại giao pháo hạm, sự phát triển của
Trung cộng sẽ bị cho là mối đe dọa với nhiều nước khác, không tỉnh táo thì Biển
Đông sẽ là cái bẫy giam hãm Trung cộng”.
Giáo sư Sun
zhe lưu ý Trung cộng rằng: “ Nam Hải ( Biển
Đông ) không phải là “ao nhà” (internal lake) của Trung cộng.
Bởi phần nhiều vùng biển này thuộc về vùng biển Quốc Tế …. Với đường lưỡi bò
này,Trung cộng có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế hiểu rằng Bắc Kinh đang cố gắng
kiểm soát Biển Đông như một “ ao nhà” của chính mình… “
Trong cuộc Hội thảo của Học viện khoa học xã hội Trung
cộng (CASS) giáo sư Thịnh Hồng thuộc
Đại học Sơn Đông nói: “Chúng ta không nên chỉ nghĩ
đến lợi ích cho mình mà cần phải quan tâm đến lợi ích của toàn thế giới bằng
cách tuân thủ theo các quy tắc quốc tế”.
Học giả Zhang
Yuling thuộc CASS nói: “ Trung cộng không
nên bám víu vào tư duy truyền thống của mình. Việc thảo luận về các biện pháp cụ
thể phân định vùng đặc quyền kinh tế trong vùng biển này phải phù hợp với
UNCLOS, trong đó Asean sẽ đóng một vai trò phù hợp, đường lưỡi bò diễn
giải mơ hồ về quyền tài phán, không đề cập đến các yếu tố địa lý của đường bờ
biển hay đường cơ sở là hoàn toàn không thuyết phục”.
Nhà nghiên cứu Lý
Lệnh Hoa thuộc trung tâm tin tức Hải Dương của Trung cộng cho rằng: “
Chúng ta- Trung cộng vẽ đường chín đoạn mà không có một
kinh độ hoặc vĩ độ cụ thể, và cũng không có căn cứ pháp luật. Đường chín đoạn
chiếm giữ gần 80% Biển Đông là do Trung cộng tự vẽ ra năm 1974”.
Giáo sư Dương
Thụ Quang, Đại học Tứ Xuyên thì nhấn mạnh: “`Trung
cộng không thể tự vẽ ra đường 9 đoạn. Khi TC khăng khăng đưa ra “Đường lưỡi
bò”, nhưng không có căn cứ để khẳng định và không được bất kỳ nước nào thừa nhận
thì nó vô giá trị. Quyền lợi của anh (TC) cần được người khác thừa nhận, ngừoi
khác không thừa nhận thì anh không có quyền đó”.
Thạc sĩ báo chí truyền thông Chu Phương, biên tập viên công tác tại Ban biên tập đối ngoại của
Tân Hoa xã có bài báo với tựa đề “ Hiện trạng Nam Hải ( Biển Đông) có lẽ sẽ kéo
lùi cải cách chính trị của Trung cộng” đăng ngày 17-7-2012. Mở đầu Chu
Phương viết: “ Nhiều người dân nước ta đến bây giờ vẫn chưa hiểu tại
sao Nga lần đầu tiên lại tham gia diễn tập quân sự lớn tại Thái Bình Dương do Mỹ
chỉ đạo. Kỳ thực đó là sự phản ứng mạnh mẽ quốc tế trước hành động thiết lập “Thành phố Tam Sa” đi ngược lại luật quốc
tế và vô trách nhiệm của Trung cộng.
…Việc thiết lập “Thành phố Tam Sa” là một
trò cười quốc tế điển hình. Chính phủ Trung cộng cần nhận rõ sai lầm to lớn của
mình. Sớm có hành động sửa chữa sai sót.
… Hành động nguy hiểm vô
trách nhiệm của một số người trong việc thiết lập “Thành phố Tam Sa” đang đẩy
nhân dân Trung cộng vào miệng hố chiến tranh.
Nhân dân Trung cộng cần hòa bình không cần chiến tranh. Trong việc xử lý vấn đề
quốc tế và xử lý vấn đề quan hệ với các nước, Trung cộng cần phải tỉnh táo,
không được cuồng nhiệt. Trung cộng cần làm một dân tộc có trách nhiệm, đứng thẳng
giữa khu rừng các dân tộc thế giới, quyết không thể làm một “ cô nhi thế giới”
hành động ngang bướng.
Trong việc giải quyết công việc quốc tế, Trung cộng cần phải học cách tuân thủ quy tắc trò chơi đã được cả thế giới công nhận, tránh một mình một kiểu, mình khen mình hay, đừng để trở thành Triều Tiên thứ hai….
Bản thân tôi mạnh mẽ kêu gọi hãy lập tức hủy bỏ “ Thành phố Tam Sa”, triển khai sớm nhất có thể được việc đối thoại mang tính xây dựng,với các nước xung quanh Nam Hải,loại bỏ nguy cơ chiến tranh, đưa Trung cộng trở lại đại gia đình quốc tế…”.
Trên đây là hai lối hành xử của người Trung cộng . Một
bên là áp đặt, ngông cuồng hiếu chiến, tham lam, bất chấp đạo lý và pháp lý,
còn một bên là tiếng nói của lương tri, tôn trọng đạo lý và luật pháp quốc tế,
hòa bình , thân hữu.
Thế giới có lý do để quan
ngại
Các quốc gia trên thế giới đều thể hiện sự
quan tâm đặc biệt tới vấn đề này, bất bình với những hành động khiêu khích và
xâm lấn trắng trợn của Trung cộng. Sau đây là một vài ý
kiến của một số nhân vật Hoa kỳ, quốc gia thân hữu với Trung cộng, ân nhân giúp
Trung cộng thoát khỏi vòng vây của Liên Xô và tạo tiền đề cho Trung cộng hội nhập
với thế giới và trở thành nước cường thịnh. Trước hàng loạt những hành động gây
hấn của Trung cộng ở Biển Đông, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, ông John Mc Cain cho là:
“Trung cộng khiêu khích”.
Còn nghị sĩ Jim
Webb của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ cho rằng: “Các hành động gần đây của Trung cộng ở Biển Đông nhằm đơn
phương khảng định quyền kiểm soát Biển Đông là phạm luật quốc tế”.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hilary Clinton nói; “ Trung cộng cần
hành xử như một cường quốc có trách nhiệm”.
Ngài Hishore
Mabubanie, giáo sư hiệu trưởng trường Chính sách công Lý Quang Diệu
Singapore thì phê phán: “ Trung cộng bắt đầu
có những sai lầm nghiêm trọng. Việc Trung cộng năm 2009 gửi công hàm lên
Liên Hiệp Quốc để đưa ra yêu sách đường 9 đoạn là hành động không
khôn ngoan, v́ Bắc Kinh sẽ gặp khó khăn trong việc biện hộ cho yêu sách của
mình theo luật quốc tế…Đường 9 đoạn có thể sẽ chỉ là
cái cùm lớn đeo vào cổ Trung cộng”.
Dẫu sao tôi vẫn muốn trích lại bài của ông luật sư
người Mỹ.Ông Ted Laguatan là một
trong 29 luật sư nổi tiếng nhất trong suốt 20 năm qua của Đoàn luật
sư bang California đã lên tiếng về sự ngông ngạo của Trung cộng đối với Biển
Ðông.
Tựa đề bài viết của ông Ted: “Tại sao Trung cộng không đưa vấn đề Trường
Sa ra Liên Hiệp Quốc?
“….. Nhà Hán của Trung Hoa mới có từ 206
trước công nguyên.
Còn Alexandre đại đế chết năm 323 trước
công nguyên. Vương quốc của ông bao gồm cả Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, Ai Cập, và một
phần Ấn Độ.
Đế quốc La Mã tồn tại hơn 1000 năm thâu
tóm cả Châu Âu và một phần Châu Á, Châu Phi.
Vậy ngày nay 2 nước Macedoine và La Mã
có thể đòi lại các phần đất cũ mà đế quốc Macedoine và La Mã chiếm
đóng từ mấy ngàn năm trước không?
Nếu lý luận như Trung cộng
ngày nay, thì người Mông Cổ có thể đòi cả nước Nga và nước Trung Hoa cùng nhiều
nước khác mà Thành Cát Tư Hãn đã thống trị từ thế kỷ 13, 14 không?”
Thói ngạo mạn của Trung cộng lấy cơ bắp làm ngôn ngữ
ngoại giao ,và áp đặt chính sách đối ngoại của mình buộc đối phương phải tuân
thủ , tựa như đường lối của bọn phát xít Hít- le ( Adolf Hitler
1889- 1945 ) hồi Đại chiến thế giới thứ 2. Thế nhưng Trung cộng luôn rêu rao là
“ trỗi dậy trong hòa bình” và “muốn làm bạn với các nước”.
Lâu nay Trung cộng đã thể hiện rất kiên trì đường lối
đối ngoại là cái gì họ làm với thế giới , luôn luôn ngược lại với cái mà họ
hùng hồn tuyên bố.
Hãy cảnh giác với Trung cộng!
Nhưng phải cảnh giác với Trung
cộng như thế nào?
Trọng trách thuộc về Đảng và Nhà nước, tức bộ máy cầm
quyền phải có trách nhiệm đối với vận mệnh quốc gia. Tuy nhiên quốc
gia hưng vong, thất phu hữu trách. Vả lại nước là của dân. Dân có
quyền bàn và được bàn. Nhưng quyết về phương lược, đối sách lại thuộc về nhà cầm
quyền. Ta phải làm gì với người hàng xóm mưu mô hiểm độc này ư? Ta là nước nhỏ
họ là nước lớn, cho nên từ mấy ngàn năm nay , là hàng xóm hữu hảo hay cừu thù,
đều do họ quyết định chứ đâu phải do ta. Xưa thế, nay vẫn thế. Nhưng nếu khôn
ngoan và biết tự trọng, tự cường, thì không cho phép họ biến mình thành con rối
trong tay họ. Nếu ta biết tự trọng thì buộc đối phương phải tôn trọng ta. Lịch
sử đã dạy chúng ta rằng, chỉ có đoàn kết toàn dân với tinh thần Diên Hồng mới
có thể hóa giải được.
Phía ta gìn giữ từng li từng tí , cốt sao cho bạn
tin tưởng. Thế nhưng ta càng nhẫn nhịn, bạn càng lớn tiếng vu cáo ta, la mắng
thậm chí chửi bới ta.Ta càng nhún nhường,bạn càng lấn tới. Nay “bạn”đã sấn sổ
vào tận cửa nhà ta, túm lấy ngực áo ta, dí dao nhọn vào tận cổ ta rồi. Vậy ta vẫn
kêu họ là “ bạn” hay phải gọi nó là “ quân ăn cướp giết người” hay
là “ quân xâm lược” mới đúng đây?
Cách hành xử của Tổng thống Phi Luật Tân Benigno
Aquino nói trước toàn dân ngày 23-7-2012 do hãng Reuters đưa lại, tưởng cũng
nên tham khảo: “ Trong vai trò lãnh đạo tôi có bổn phận bảo vệ luật
pháp của đất nước chúng ta và trong khi tôi làm bổn phận này, căng
thẳng đã diễn ra, một mặt là phía Trung cộng đưa ra lý thuyết đường đứt đoạn
9 khúc để tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ biển Tây cua Phi Luật Tân.
Chúng ta đã tỏ ra nhẫn nhịn tới mức tối đa trong khi đối phó với vấn đề này. Chúng ta đã chọn con đường không lời qua tiếng lại với những tuyên truyền khiêu khích của báo chí Trung cộng.
Chúng ta đã tỏ ra nhẫn nhịn tới mức tối đa trong khi đối phó với vấn đề này. Chúng ta đã chọn con đường không lời qua tiếng lại với những tuyên truyền khiêu khích của báo chí Trung cộng.
Tôi không cho là một điều quá đáng khi
chúng ta yêu cầu nước khác tôn trọng chủ quyền của chúng ta, như chúng ta tôn
trọng chủ quyền của một nước khác trong thế giới mà chúng ta cần phải sống
chung. Có những kẻ khuyên chúng ta nên bỏ qua vụ việc Bajo Masinloc ( quốc tế gọi
là bãi cạn Scarborough ) chúng ta nên tránh phiền phức.
Nhưng nếu có một người nào đó vào ngôi
vườn của bạn và nói với bạn rằng hắn làm chủ ngôi vườn này. Bạn có chịu không?
Liệu có đúng không khi chúng ta giao cho kẻ khác những gì chính đáng thuộc về
chúng ta. Và vì thế tôi kêu gọi đồng bào phải đoàn kết về vấn đề này. Chúng ta
phải nhất trí nói cùng một tiếng nói:
Xin đồng bào giúp tôi chuyển đến phía
bên kia (TC) những lý lẽ trong lập trường của chúng ta.”
Vậy là các nhà lãnh đạo và nhân dân Phi Luật Tân đã
có một tiếng nói chung-Tiếng nói bảo vệ Tổ quốc.
Ngài tổng thống Aquino kết thúc bài nói chuyện bằng
câu: “ Xin đồng bào giúp tôi chuyển đến phía bên kia ( TC ) những lý lẽ
trong lập trường của chúng ta”, có nghĩa là ông kêu gọi các phương tiện
truyền thông góp sức cùng nhà nước đấu tranh trên cơ sở của lẽ phải.
Về phía ta điều nên làm khẩn cấp trong
lúc này là phải công khai các tư liệu về chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cho toàn dân được biết.
Phải xác định rõ tọa độ 2 quần
đảo này theo kinh độ, vĩ độ. Phải trình bày rõ ràng
việc chiếm hữu khai thác thực thi chủ quyền liên tục từ mấy thế kỷ nay.
Phải in các bản đồ của ta và của Trung Hoa
cổ kèm theo. Phải dịch ra các thứ tiếng, và Tùy viên văn hóa của
tòa đại sứ ta ở các nước có quan hệ ngoại giao với ta, phải có nghĩa vụ giới
thiệu và làm rõ vấn đề với các nước bạn, để bạn hiểu đâu là chân lý.
Phải phổ cập kiến thức này qua hệ thống
truyền thông của Nhà nước.
Phải phổ cập chương trình này trong các cấp
học của Bộ Giáo dục.
Trong các đơn vị của Bộ quốc phòng, mỗi
người lính phải hiểu tường tận lãnh thổ, lãnh hải của cả nước. Nếu
không biết rõ hình hài của đất nước thì biết ta sở hữu đến đâu mà bảo vệ.
Nên in thành tài liệu rút gọn về Trường
Sa, Hoàng Sa có kèm bản đồ phát không cho khách du lịch nước ngoài, và phát tài
liệu này cho toàn dân.
Cũng nên mở các cuộc thi tìm hiểu về địa
lý, lịch sử của Trường Sa, Hoàng Sa, Bạch Long Vỹ, Lý Sơn, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú
Quý, Phú Quốc…
Trong điều kiện có thể nên
in cả Luật biển Việt Nam và Công ước Luật biển UNCLOS của Liên Hiệp Quốc để phổ
cập cho mọi tầng lớp nhân dân được biết. Đó chính là cơ sở pháp lý để ta
đấu tranh với họ.
Trường Sa và Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam từ 300 đến
400km, cách Trung cộng từ 600 đến 900 km mà Trung cộng lại đòi nhận
là của Trung cộng. Nó hoàn toàn trái với Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc
mà Trung cộng cũng là một bên ký kết. Đường lưỡi bò mà Trung cộng tự vẽ ra và
đe dọa các nước phải công nhận. Nếu các nước có liên quan và cả thế giới chấp
nhận cho Trung cộng áp dụng luật rừng thì ước tính họ chiếm của Việt Nam
1.170.000 km2 thềm lục địa; Phi Luật Tân mất khoảng 620.000 km2; Mã Lai 170.000
km2; Brunei 50.000 km2; Nam Dương 50.000 km2. Và như thế Trung cộng sẽ là bá chủ
Biển Đông, tức là làm chủ cả phía Tây Thái Bình Dương, thế giới sẽ khốn đốn với
họ.
Nên nhớ biển thuộc chủ quyền của ta có diện tích lớn
gấp gần 4 lần diện tích đất liền-biển chính là không gian sinh tồn và là tương
lai của cả dân tộc. Để mất không gian biển cũng chính
là mất nước, mất cả sự sống của toàn dân tộc.
Tuy nhiên nhân loại của thế kỷ 21 đã tỉnh thức, dù
nhà cầm quyền Trung cộng có tham vọng biến mình thành Hít-le thì thế giới cũng
không cho phép, nhân dân Trung cộng không cho phép.
Thiết nghĩ trên đây là những việc cần làm cấp bách,
còn những việc phải làm cũng không kém phần cấp bách nữa, là chuẩn bị sẵn sàng
cho tình huống xấu nhất. Trong đó về nhân lực, về khí tài không thể coi nhẹ. Và
việc phán đoán cơ mưu quỷ quyệt của đối phương phải hết sức chính xác, sai một
ly đi cả vạn dặm. Về tham mưu nhân dân, chúng tôi xin bên An ninh, Quốc phòng
lưu ý cái đám cả vạn tầu cá trá hình của Trung cộng. Có thể sự rắc rối khó lường
lại nảy sinh từ đám tàu cá chứ không phải lũ tàu ngầm và khu trục hạm.
Hãy dũng cảm tự tin và liên kết bạn bè lại
để hưng thế nước. Dân tộc ta đã từng vùi chôn cái mộng
bá chủ thiên hạ của Hốt – Tất – Liệt có sức mạnh kinh thiên động địa hồi thế kỷ
13, chẳng nhẽ đó không phải là nguồn động lực, không phải là một thứ khí tài thần
thánh cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc sao?
Sức mạnh là ở lòng dân!
Hà
Nội ngày 12 tháng 8 năm 2012
Hoàng
Quốc Hải
(Blog Tễu)
(*)
chữ nguyên thủy tác giả xử dụng là „Trung Quốc“