„Câu nói "Kỹ sư Việt Nam không làm nổi
con ốc" đã nói lên hiện tình công nhân Việt Nam không có tay nghề, thầy
không ra thầy mà thợ cũng không ra thợ.“
Thừa thầy thiếu thợ
Đỗ Đăng
Liêu
Vào ngày 15/12 vừa qua, tại
buổi "Hội thảo nhân sự 2016 - Vũ khí tối ưu trong cuộc chiến thu hút nhân
tài và Giữ chân nhân tài" do tạp chí Doanh nhân phối hợp với Công ty Le
Media tổ chức, ông Đỗ Xuân Quang, Chủ
tịch Hiệp hội doanh nghiệp Logistics Việt Nam, cho biết là Việt Nam đang thiếu lao động tay nghề cao, và nguồn cung cấp nhân
lực trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu của ngành, và dự kiến trong 3 năm tới sẽ cần thêm
ít nhất 30.000 lao động.
Trước đó vào
ngày 12/12, tại "Diễn đàn doanh nhân trẻ ASEAN+3", ông Nguyễn Sơn, Phó văn phòng Ban chỉ Đạo
Liên ngành hội nhập kinh tế Quốc tế thuộc Bộ công thương, cho biết hiện có
khoảng từ 70.000 đến 80.000 lao động Việt Nam làm việc tại Thái lan, và trong
đó có tới 50.000 lao động bất hợp pháp.
Trước đây, vào
tháng 10/2014, tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế và xã hội, Đại biểu
Quốc hội Nguyễn Thị Hồng Hà đã nói
rằng khoảng 25% tới 30% công
chức, viên chức khu vực nhà nước có chất lượng lao động thấp.
Một sự so sánh
đã từng được đưa ra giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Với dân số 320 triệu, Hoa Kỳ chỉ có 2,1 triệu công chức (tức 10 ngàn dân thì có 65 công chức), trong khi Việt Nam có dân số 94 triệu (chỉ hơn 1 phần tư dân số Hoa Kỳ một
chút) lại có tới 2,8 triệu
công chức (tức 10 ngàn dân
thì có 298 công chức), tức là tỷ lệ công chức ở Việt Nam bây giờ cao hơn ở HK
gấp 4,6 lần. Như vậy, để làm cùng một công việc của một công chức Hoa Kỳ thì
Việt Nam phải cần tới 4,6 công chức.
Nói cách khác,
công chức Việt Nan có khả năng như công chức Hoa Kỳ thì hiện Việt Nam chỉ cần
500 ngàn công chức là làm xong việc, tức là có khoảng 2,3 triệu công chức đang
… dư thừa.
Những dữ kiện do
các doanh nhân Đỗ Xuân Quang, Nguyễn Sơn và Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hồng
Hà cung cấp ở trên làm nổi bật một nghịch lý đang diễn ra ở Việt Nam.
Đó là trong khi Việt Nam thiếu lao động có kỹ
năng, có trình độ, thì lại quá dư thừa công chức ngồi không ăn lương. Một đằng thì có việc nhưng không có
người làm, đằng khác không có việc thì người bu vào ăn lương và… ngồi chơi xơi
nước.
Chả trách, mới
đây, ông Phó Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp Quốc hội Nguyễn Đình Quyền đã lớn tiếng tuyên bố: “Cho tôi toàn quyền, tôi sa thải 40% nhân viên”. Kể ra vẫn là còn
nhẹ tay và chưa đủ mạnh, so với thực tế.
Tiến sĩ Hồ Đình Bảo, thuộc Nhóm nghiên cứu Đại
học kinh tế Quốc dân cho biết là theo báo cáo của các chuyên gia thì năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam rất
thấp so với các nước trong khu vực Á Châu, thấp hơn 18 lần so với Singapore, 11 lần so với Nam Hàn, 5 lần
so với Mã Lai, 2 lần so với Thái Lan, và chỉ ngang hàng với Lào.
Tình trạng tệ hại như trên của lao động
Việt Nam nguyên do từ đâu?
Chủ nghĩa xã hội
đề cao "giai cấp công nhân" là lực tiên phong trong xã hội. Nhưng
trong thực tế lao động tại
Việt Nam hiện nay bị coi thường nhất trong xã hội, bị bóc lột mọi mặt và chỉ đi làm công cho các chủ nhân đầu
tư hay chạy chọt tiền để đi làm lao công ở nước ngoài, ra đi không muốn về nước
vì lương cao hơn ở Việt Nam dù chỉ làm lao công tay chân.
Nền kinh tế của
một nước muốn phát triển không chỉ dựa trên đầu tư, thương mại mà phải dựa trên
tầng lớp công nhân có tay nghề cao để tham gia vào đội ngũ sản xuất hàng hóa.
Muốn hàng hóa sản xuất tốt và hiệu quả, tay nghề phải đươc huấn luyện. Thế
nhưng, ở Việt Nam ngày nay ít
ai muốn học ra làm thợ mà chỉ muốn làm thầy (kỹ sư, cử nhân, …) nhưng ra trường lại không có công ăn việc
làm; phần vì việc làm không có, phần vì không có thực tài. Câu nói "Kỹ sư
Việt Nam không làm nổi con ốc" đã nói lên hiện tình công nhân Việt Nam không có tay nghề, thầy không
ra thầy mà thợ cũng không ra thợ.
Công đoàn độc
lập là một tiêu chí quan trọng khi tham gia TPP, nhưng người lao động không đòi
hỏi việc thành lập nghiệp đoàn chỉ để bảo vệ quyền lợi, mà quan trọng hơn là có
điều kiện tổ chức và liên kết với các nghiệp đoàn quốc tế để có thể giúp thăng
tiến khả năng chuyên môn. Nhà
cầm quyền CSVN, khi cản trở sự hình thành công đoàn độc lập, và không để cho
người lao động có điều kiện liên kết với những lao động quốc tế, kể cả khối kiều bào hải ngoại, đã cản
trở sự phát triển khả năng để thăng tiến trong đời sống của người lao động.
Và nguyên nhân
sau cùng mang tính chất cốt lõi là Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, không
phải là quốc gia công nghiệp sản xuất. Vì thế khi thành lập các doanh nghiệp
nhà nước, CSVN đã tổ chức và quản lý công nhân như bộ máy hành chánh, sắp người
vào đầy các vị trí nhưng hoàn toàn không biết cách vận hành, quản lý. Tất cả
đều theo mệnh lệnh của đảng chứ không phải theo nền kinh tế thị trường.
Từ đó dẫn đến
tình trạng "dư thầy dở, thiếu thợ giỏi" hiện nay.
Với một lực
lượng lao động khả năng thấp như vậy, Việt Nam sẽ rút tiả được những lợi ích gì
hay phải chịu những hậu quả gì khi Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN (AEC) bước vào hoạt
động sau ngày 31/12/2015, tức chỉ còn 1 tuần lễ nữa thôi.
Với tình trạng
được phép chuyển dịch tự do, các lao động có tay nghề cao từ các nước khác sẽ
đổ về Việt Nam để đáp ứng nhu cầu tại đây, chiếm đoạt công việc của lao động
địa phương dễ dàng thất nghiệp mất công ăn việc làm.
Ngược lại, những
lao động Việt Nam có tay nghề khá sẽ rất dễ bị hút ra nước ngoài vì điều kiện
làm việc và lương bổng thuận lợi hơn dẫn đến tình trạng "xuất huyết lao
động" và "xuất huyết chất xám" mà có người đã nhận định là một
nguy cơ có tầm vóc quốc gia chứ không chỉ là câu chuyện riêng của các doanh
nghiệp.
Muốn giải quyết tình trạng “thừa thầy - thiếu
thợ” cũng như tạo sinh khí mới cho nhu cầu phát triển Việt Nam sau khi gia
nhập vào Hiệp định TPP và Cộng đồng kinh tế ASEAN, Việt Nam phải tiến hành bốn
nỗ lực chính yếu sau đây:
Thứ nhất, cấp tốc
cải cách hệ thống giáo dục, dựa trên nền tảng thực dụng nhằm đào tạo những con người đáp ứng
cho nhu cầu phát triển xã hội chứ không nhằm củng cố chủ nghĩa xã hội. Chính
quyền chấm dứt việc quản lý và chỉ đạo nội dung giáo dục, để cho tư nhân và các
đoàn thể xã hội dân sự tham gia vào những chương trình giảng huấn và đào tạo
công nhân lẫn những chuyên gia cho xã hội.
Thứ hai, chấm dứt
việc đảng cộng sản hóa trong những tổ chức quần chúng, đặc biệt là trong Tổng Liên Đoàn Lao
Động, Hội Nông Dân, Liên Hiệp Khoa Học, Kỹ Thuật. Đây là những đoàn thể xã hội
phải hoạt động độc lập với chính quyền như quy chế Công đoàn độc lập mà Hiệp
định TPP đòi hỏi để tập thể công nhân, lao động, chuyên gia tự quyết định lấy
hướng đi và khả năng phục vụ của từng ngành nghề theo nhu cầu của xã hội.
Thứ ba, bãi bỏ việc
coi trọng vai trò chủ đạo nền kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện và sân chơi bình đẳng
cho các doanh nghiệp hoạt động bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
nhà nước và kể cả những doanh nghiệp nước ngoài. Có như vậy các doanh nghiệp
mới hết lòng và tuân thủ luật pháp để dồn nỗ lực đào tạo công nhân tay nghề,
nghiên cứu kỹ thuật hầu cạnh tranh sản xuất lành mạnh.
Thứ tư, chấm dứt
tình trạng “xuất cảng lao động” nhằm tìm kiếm lợi nhuận của bộ máy Đảng và nhà
nước hiện nay qua các dịch
vụ môi giới lao động nước ngoài. Hiện có hơn 300 ngàn lao động Việt Nam đưa
sang làm việc tại nhiều quốc gia, trong đó Nam Hàn, Mã Lai, Nhật Bản và Đài
Loan là đông nhất. Những người lao động này không những không học được kỹ thuật
gì vì đa số là lao động tay chân, mà còn phải làm cật lực để trả nợ “môi giới”
khi đi làm lao công ở xứ người.
Nói tóm lại,
tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” xảy ra không chỉ do chính sách giáo dục đào
tạo sai lầm mà còn do viễn kiến của giới lãnh đạo quá thấp, không thoát ra khỏi
khuôn thước giáo điều xã hội chủ nghĩa.
Đỗ Đăng Liêu