TẾT của người VIỆT- không phải của TÀU
TẾT [ăn Tết,
ngày Tết, ba ngày Tết, Tết nhất, tết đến, chúc tết, đi tết ai, pháo Tết, mừng tết,
hội tết, Tết ta, Tết tây [không ai nói là tết tàu !]
Tết là gì?
Tết là tên riêng [nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu
năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền đông nam Á.
tiết chỉ là một tên thuờng [nom commun] của Tàu gọi
những thời tiết thay đổi trong một năm chỉ có nguời Việt gọi là tết hay tết
nguyên đán, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu chỉ biết gọi là duỳn tản [nguyên
đán] hay là xin nển [tân niên], vậy tại
sao họ không gọi là Tết ? vì Tết không phải là
tiếng của họ.
Sau đây là những cognates /từ đồng nguyên/ khắp Đông
nam Á, dính líu với TẾT :
Al
de Rhodes : Tết
Tết năm [sic],
tết ai,
ăn Tết
Từ điển Khai Trí Tiến Đức không hề cho rằng Tết
là # tiết của Tàu.
Vả lại các ngôn ngữ chung quanh tiếng Việt cung đều
gọi là Tết như chúng ta :
Nùng
: TẾT
nèn Tết # năm Tết
Mường
:Thết # Tết,
ăn Thết ăn Tết
Thái
: Thêts
lễ mừng năm mới
Thế -xa New
year celebration trong kinh Lễ, Khổng tử
gọi là Tế-sạ
Thêts khal
mùa Tết, những ngày tết.[khal là thời gian]
khal
thêtx ngày Tết
Thêts Thày Tết
Thái [Thai New Year]
Thrếts Tết
[theo Từ điển
Francais-Thái của Pallegoix]
Thrếts Chìn Tết
của Tàu Chinese new Year [Chìn là Tần
# Tàu]
Chêtr Tết của Thái [fifth lunar month / mid
April Thái festival]
Tết / Đết tên ông thần mua [rain god, monsoon deity]
Trôts lễ hội Thái cổ, vào đầu mùa mưa bên Thái
Tốts Farăng Tết Hoa-lang [western New Year's Day]
[xem bài
"Hoa lang đạo là đạo gì ?" Hoa lang là : Occident, West #
phương tây.
Xem Từ điển nguồn
gốc tiếngViệt (Bs Nguyễn hy Vọng)
Zhuang : XIT / SIT # lễ Tết của 20 triệu nguời Zhuang bên Quảng
tây,vùng Quế Lâm, nói tiếng Tai # tiếng Thái xua !
đuon
Sít # tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]
[đuon là tháng]
Chàm : TÍT # lễ tháng năm của lịch xua Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi] băng
Tít # ăn Tết, CHÊT # Tết,
bu-lăn Chêt # tháng tết , bu lăn là tháng [tiếng Chàm]
kTÊH # lễ hội
lớn nhất trong năm của nguời Chàm
Mon : kTEH
# New Year Day of the Mon people
o-TEH
Tết # New Year celebration with
water splashing rituals
o - Tet
k-Tât
New Year rituals
k-Tet
id
Khmer : CHÊTR # Tết, lễ mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là
tháng gió mùa bắt đầu thổi nguợc lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông nam Á tùy
theo noi, từ cuối tháng tu đến cuối tháng năm]
khae Chêtr #
tháng tết,
[khae là tháng] # 13 tháng 4 dương lịch,
# 23 tháng ba âm lịch;
Chêtr khal # thời
gian có lễ Tết [khal là thời gian].
India : CHETR là tên tháng tư và
tháng năm của cổ lịch Ấn độ, hai tháng giao mùa đem mưa đến [mois du début de
la mousson]
Nepal : TEEJ lễ đầu năm của Nepal
Mustang : TIDJ lễ đầu năm của xứ Mustang, sát với xứ Nepal
Munda : TEEJ lễ ăn mừng mùa mưa đến / the ancient melodies of Teej , marking
the return of the monsoon and the promises of prosperity [National Geographic
magazine]
Kinh Lễ ký viết
là TẾ-SẠ ! # Tết
Khổng tử viết
:"Ta không
biết Tết là gì, nghe đâu đó là "tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời
Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên
cho ngày đó là "TẾ SẠ" (kinh Lễ ký). Khổng tử không nghi rằng
"tiết"là Tết, nên ổng mới
phiên âm là Tế-Sạ [sic]
[xem trên] tên
xưa của Tết nguời Thái cũng là Thê-sa [sic]
Hơn nữa, xem
trên, có hơn chục ngôn ngữ và dân tộc có nền văn hoá khác hẳn với Tàu, mà vẫn gọi cái lễ ấy là :Têt, đồng âm với cái tiếng
Tết của dân Giao chỉ và của dân Mừờng, nên ta phải "suy nghĩ lại" và
"xét lại" về cái hiểu lầm Tết
# Tiết của hơn 2000 năm qua.
Như vậy, tết là
tên gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa của các dân tộc và sau này trở thành ngày
ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon,
Khmer, Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal, Mustang, Munda
Sau khi bạn xem
qua bài nghiên cứu trên đây, bạn có còn nghi rằng Tết là do tiết của Tàu mà ra không ?
Bs Nguyễn hy Vọng
Đọc thêm:
***
Ta
có thể thấy tết ở Việt Nam đã có từ rất lâu, trước thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Khổng Tử đã viết trong cuốn Kinh Lễ: “Ta
không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man,
họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho
ngày đó là Tế Sạ”.
Sách Giao Chỉ
Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao
Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời
trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn-
Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa
động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người
trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần
điên đảo như thế.” Ta cũng có thể nói Tết có nguồn gốc từ Việt Nam.
Đọc thêm:
Xin nhớ rằng, Tết âm lịch có từ dân tộc Việt rất là lâu rồi, từ hơn bốn
ngàn năm trước… sau mấy anh Tàu mới học theo Việt Nam để ăn Tết và biến thành
Tết Tàu.
Tết
ta có từ thời vua Hùng Vương, sử dân tộc đã nói như thế, từ chuyện kể lưu giữ
từ đời này sang đời kia (Bánh dầy, bánh chưng). Tới khi quân Tàu chiếm Việt Nam, một số
phong tục lại từ Phương Bắc nhập vào VN. Rồi nhiều người cứ tưởng đây là Tết
Tàu .
Theo
Tự Điển Bách Khoa Mở Wikipedia, Tết ghi như sau.
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ
truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam…
Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như “Tết Táo Quân” (23
tháng chạp âm lịch) và “Tất Niên” (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch).
Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng
nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết
Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không
bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch
mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp
Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và
7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Hàng
năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịch trên đất nước Việt
Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày
Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ
cúng tổ tiên… Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.
Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông
nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian
trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời
khắc “giao thừa”) trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ
canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết
Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Hoa, nguồn gốc Tết
Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam
đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên
chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà
Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu
năm. Nhà Chu ưa màu đỏ nên chọn
tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về
ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất,
giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử
đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN),
Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ
Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau,
không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Nguồn gốc của tết vẫn còn đang được tranh cãi, nhưng hầu hết thông
tin đều cho rằng ngày tết Nguyễn Đán có nguồn gốc từ Trung Hoa và được du nhập
về Việt Nam trong 1000 năm bắc thuộc. Nhưng theo sự tích “Bánh chưng bánh dày”
thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm bắc
thuộc.
Thời
Tam Hoàng Ngũ Đế từ năm 2852 – 2205 TCN, nhưng theo lịch sử Việt Nam cho thấy: “Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm
Nhâm Tuất 2879 TCN, trị vì cả 2.622 năm. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long
Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng
Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết.”.
Tết
của hai quốc gia Việt Nam và Trung Hoa có ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng vẫn có
những đặc trưng riêng của hai quốc gia.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm
lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (CSVN) ban
hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc
Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng 1 trong
khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả 2 miền nam bắc mới dùng
chung múi giờ GMT+7….
Thế đấy nhé. Tết Ta, không phải Tết Tàu.
***