13.02.2016

TẾT của người VIỆT- không phải của TÀU

TẾT của người VIỆT- không phải của TÀU


TẾT   [ăn Tết, ngày Tết, ba ngày Tết, Tết nhất, tết đến, chúc tết, đi tết ai, pháo Tết, mừng tết, hội tết, Tết ta, Tết tây [không ai nói là tết tàu !]

Tết là gì?

Tết là tên riêng [nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền đông nam Á.


tiết chỉ là một tên thuờng [nom commun] của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một năm chỉ có nguời Việt gọi là tết hay tết nguyên đán, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu chỉ biết gọi là duỳn tản [nguyên đán] hay là xin  nển [tân niên], vậy tại sao họ không gọi là Tết ? vì Tết không phải là  tiếng của họ.

Sau đây là những cognates /từ đồng nguyên/ khắp Đông nam Á, dính líu với TẾT :

Al de Rhodes : Tết                              
                      Tết năm [sic],
                           tết ai,
                           ăn Tết
Từ điển Khai Trí Tiến Đức không hề cho rằng Tết là  # tiết của Tàu.
Vả lại các ngôn ngữ chung quanh tiếng Việt cung đều gọi là Tết như chúng ta :

Nùng  :  TẾT
             nèn Tết  #  năm Tết

Mường :Thết    #  Tết,  ăn Thết     ăn Tết

Thái  : Thêts  lễ mừng năm mới
           Thế -xa  New year celebration  trong kinh Lễ, Khổng tử gọi là Tế-sạ
           Thêts  khal    mùa Tết, những ngày tết.[khal là thời gian]
           khal  thêtx     ngày Tết
           Thêts  Thày  Tết Thái  [Thai New Year]
           Thrếts           Tết
[theo Từ điển Francais-Thái của Pallegoix]
           Thrếts  Chìn  Tết của Tàu     Chinese new Year [Chìn là Tần # Tàu]
           Chêtr       Tết của Thái [fifth lunar month / mid April Thái festival]
           Tết / Đết  tên ông thần mua   [rain god, monsoon deity]
           Trôts        lễ hội Thái cổ,  vào đầu mùa mưa bên Thái
           Tốts Farăng  Tết Hoa-lang [western New Year's Day]
[xem bài "Hoa lang đạo là đạo gì ?" Hoa lang là : Occident, West  #  phương tây.
Xem Từ điển nguồn gốc tiếngViệt (Bs Nguyễn hy Vọng)

Zhuang : XIT / SIT  #  lễ Tết của 20 triệu nguời Zhuang bên Quảng tây,vùng Quế Lâm, nói tiếng Tai # tiếng Thái xua !
      đuon  Sít #  tháng Tết  [mois de festival célébrant la mousson]
      [đuon là tháng]

Chàm :    TÍT  # lễ tháng năm của lịch  xua Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi] băng Tít #  ăn Tết, CHÊT #  Tết,   bu-lăn Chêt # tháng tết , bu lăn là tháng [tiếng Chàm]
            kTÊH  #  lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm

Mon  : kTEH  #  New Year Day of the Mon people
          o-TEH  Tết  # New Year celebration with water splashing rituals
          o - Tet
          k-Tât  New Year rituals
          k-Tet  id

Khmer : CHÊTR  #  Tết, lễ mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là tháng gió mùa bắt đầu thổi nguợc lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông nam Á tùy theo noi, từ cuối tháng tu đến cuối tháng năm]
           khae Chêtr  #  tháng tết,
          [khae là tháng] # 13 tháng 4 dương lịch, # 23 tháng ba âm lịch;
         Chêtr khal   #   thời gian có lễ Tết [khal là thời gian].

India :    CHETR là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn độ, hai tháng giao mùa đem mưa đến [mois du début de la mousson]

Nepal :  TEEJ  lễ đầu năm của Nepal

Mustang : TIDJ lễ đầu năm của xứ Mustang, sát với xứ Nepal

Munda : TEEJ lễ ăn mừng mùa mưa đến / the ancient melodies of Teej , marking the return of the monsoon and the promises of prosperity [National Geographic magazine]       

Kinh Lễ ký viết là TẾ-SẠ ! # Tết         
    
Khổng tử viết :"Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là "tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là "TẾ SẠ" (kinh Lễ ký). Khổng tử không nghi rằng "tiết"là Tết, nên ổng mới  phiên âm là Tế-Sạ [sic]
[xem trên] tên xưa của Tết nguời Thái cũng là Thê-sa [sic]

Hơn nữa, xem trên, có hơn chục ngôn ngữ và dân tộc có nền văn hoá khác hẳn với Tàu, mà vẫn  gọi cái lễ ấy là :Têt, đồng âm với cái tiếng Tết của dân Giao chỉ và của dân Mừờng, nên ta phải "suy nghĩ lại" và "xét lại" về cái hiểu lầm Tết  # Tiết của hơn 2000 năm qua.

Như vậy, tết là tên gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa của các dân tộc và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer, Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal, Mustang, Munda

Sau khi bạn xem qua bài nghiên cứu trên đây, bạn có còn nghi rằng Tết  là do tiết của Tàu mà ra  không ?


Bs Nguyễn hy Vọng

Đọc thêm: 


Tết Ta, không phải Tết Tàu
***


        
Xin nhớ rằng, Tết âm lịch có từ dân tộc Việt rất là lâu rồi, từ hơn bốn ngàn năm trước… sau mấy anh Tàu mới học theo Việt Nam để ăn Tết và biến thành Tết Tàu.

        Tết ta có từ thời vua Hùng Vương, sử dân tộc đã nói như thế, từ chuyện kể lưu giữ từ đời này sang đời kia (Bánh dầy, bánh chưng).  Tới khi quân Tàu chiếm Việt Nam, một số phong tục lại từ Phương Bắc nhập vào VN. Rồi nhiều người cứ tưởng đây là Tết Tàu .

        Theo Tự Điển Bách Khoa Mở Wikipedia, Tết ghi như sau.

      Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam… Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như “Tết Táo Quân” (23 tháng chạp âm lịch) và “Tất Niên” (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch).


        Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).



        Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên… Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.

              Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thừa”) trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.



        Theo lịch sử Trung Hoa, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa màu đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

       Nguồn gốc của tết vẫn còn đang được tranh cãi, nhưng hầu hết thông tin đều cho rằng ngày tết Nguyễn Đán có nguồn gốc từ Trung Hoa và được du nhập về Việt Nam trong 1000 năm bắc thuộc. Nhưng theo sự tích “Bánh chưng bánh dày” thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng, nghĩa là trước 1000 năm bắc thuộc.



        Thời Tam Hoàng Ngũ Đế từ năm 2852 – 2205 TCN, nhưng theo lịch sử Việt Nam cho thấy: “Họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang từ năm Nhâm Tuất 2879 TCN, trị vì cả 2.622 năm. Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân, sau khi nối ngôi, vị vua hiền đức này kết hôn cùng bà Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Từ thời đó, người Việt ta đã ăn Tết.”.

        Ta có thể thấy tết ở Việt Nam đã có từ rất lâu, trước thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Khổng Tử đã viết trong cuốn Kinh Lễ: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là Tế Sạ”.

Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẻ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.” Ta cũng có thể nói Tết có nguồn gốc từ Việt Nam.


        
Tết của hai quốc gia Việt Nam và Trung Hoa có ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng của hai quốc gia.

       Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (CSVN) ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1). Từ năm 1976, cả 2 miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7….

       Thế đấy nhé. Tết Ta, không phải Tết Tàu.





***