Lê Quốc Trinh
Thân mến chào các anh
chị,
Hy vọng rằng đây chưa
phải là lời cảnh báo cuối cùng tôi gửi đến các anh chị em Yêu Nước tại Canada
này. Sau loạt bài bắt đầu bằng “Lời sám hối muộn màng”tôi
đăng trên DCVOnline.net năm ngoái (30-04-2015), tiếp theo nhiều loạt bài khác
cũng trên cùng trang mạng đó và vài websites khác ở hải ngoại, tôi đã cố gắng
giữ im lặng để chờ đợi phản ứng của các anh chị, ít nhất là bày tỏ thái độ “yêu
nước” của mình trước tình thế nguy ngập của đất nước. Tôi hy vọng bằng bước
chân tiên phong “sám hối tự nguyện” tôi sẽ tìm được nhiều tiếng nói đồng cảm,
ít ra cũng dám thổ lộ rằng “chúng ta đã lầm khi bước theo
con đường Bác đi”. Nhưng không ngờ, sau gần một năm, chỉ có vài
người bạn âm thầm đến chia sẻ “đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu” với tôi, so sánh với hàng chục người từng “vỗ ngực
tự xưng yêu nước thời thập niên 70” nay vẫn còn ngậm miệng, thì tôi thất vọng
vô cùng.
Lá thư này sẽ giải
thích cặn kẽ những gì tôi tuyên bố chắc nịch trong bài “Lời sám hối muộn màng” chứng tỏ suy nghĩ tâm tư
của tôi có cơ sở lý luận cá nhân độc lập, dựa trên thực tiễn, không hề theo
đuôi ai hết. Hơn nữa, xuyên qua lá thư này tôi cũng xin lỗi nhiều bạn bè mới
quen, họ mong chờ bài viết của tôi gần một năm nay để biết thêm những sự thật
khác về cái gọi là Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada. Rồi các bạn đó sẽ thông
cảm với tôi một khi hiểu rõ những khúc mắc tình cảm-lý trí dày vò tôi suốt một
năm qua, khiến cho tôi phải đắn đo do dự trước khi cắn răng viết lên những
giòng tâm sự này.
Bài viết này khá dài
vì đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến thời cuộc, trình bày mối dây liên hệ
mật thiết giữa nhà cầm quyền CS Hà Nội với một hội đoàn chính trị người Việt ở
hải ngoại, mà tôi là một nhân chứng sống, một hội viên tích cực trong Hội từ
1973 đến 1990. Qua nhiều bằng chứng giấy trắng mực đen, nhiều tài liệu do anh
tổng biên tập DCVOnline cung cấp đi kèm ba bài viết của tôi năm 2015, tôi mới
rõ rằng mình chưa phải là nhân chứng duy nhất. Tôi không ngờ rằng bên ngoài,
báo chí truyền thông Canada biết khá rõ thực trạng kinh tài của hội đoàn này kể
từ khi lãnh đạo Hội dấn thân vào con đường “kinh doanh”. Do đó tôi không cảm
thấy đơn độc trên con đường tìm hiểu và vạch trần sự thật.
Bài viết này xin đề
cập đến những vấn đề sau:
1) Vài
lời tự giới thiệu của tác giả, Lê Quốc Trinh
Để giải thích tại sao
tôi đã hoạt động tích cực trong một hội đoàn thân Cộng, nhưng không hề bị tẩy
não? Không chịu ảnh hưởng ngầm của Nhà Nước CS VN? Do đâu tôi nhìn thấy rõ bộ
mặt thật của những “con người tự xưng yêu nước”?
Và tại sao đến giờ phút này tôi mới lên tiếng trần tình? Tôi xin thưa:
- Tôi sinh trưởng ở
miền Nam (Sài Gòn 1948) trong một gia đình gốc Bắc di cư 1945. Tôi mang ơn bà
mẹ thân sinh tôi đã tảo tần nuôi con cái cho đến thành tài. Tôi cám ơn người
cha thân sinh tôi, đã nghiêm khắc dạy dỗ con cái theo truyền thống giáo dục
Việt nam. Làm công chức bình thường nhưng ông đã dám bỏ tiền mua nhiều bộ sách
quý về cho con cái đọc, từ Cổ Học Tinh Hoa, Tự Lực Văn
Đoàn, Liêu Trai Chí Dị, Văn Hóa Ngày Nay, cho đến bộ Tự Điển Bách Khoa (Encyclopedie) tiếng Pháp dày
cộm, 6 quyển lớn đầy dẫy hình ảnh (từ năm 1960). Tôi cũng cám ơn Thư Viện Quốc
Gia (Sài Gòn) đã gửi hàng trăm cuốn sách đến nhà tôi để nhờ đóng bìa da nạm chữ
vàng. Nhờ thế mà tôi đã ngốn hết sạch những bộ tiểu thuyết dã sử Trung Hoa, từ Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thủy Hử, Đông Châu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh
Hùng v.v... Chưa nói đến những truyện tiểu thuyết tuyên truyền
tư tưởng CS của miền Bắc mà trong Nam vẫn cho đọc tự do, ví dụ Dế Mèn Phiêu Lưu Ký của Tô Hoài (sau này tôi mới
phát giác là công cụ tuyên truyền chủ thuyết CS), chưa hết tôi lại còn được
nghe những bản nhạc xuất xứ từ miền Bắc do ca sĩ trong Nam hát, điển hình là
bài Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải, hay bài Đợi Anh Về (thơ của thi sĩ người Liên Xô
Konstantin Simonov, Tố Hữu dịch tiếng Việt, nhạc sĩ Văn Chung phổ nhạc và ca sĩ
Elvis Phương hát). Sau Hiệp định Geneve 1954, trong khi miền Bắc CS ra sức tiêu
diệt sạch những tác phẩm nghệ thuật tiền chiến, may nhờ miền Nam VNCH cố gắng
lưu trữ và phát huy tới đỉnh cao mà kho tàng tân nhạc VN không bị mai một. Bao
nhiêu kỷ niệm êm đẹp đó chứng tỏ tôi đã được sống trong một vùng đất nước có
nền tự do dân chủ phôi thai. Tôi có thể nào phản bội lại được không?
- Sống trong thành
phố Sài Gòn tráng lệ, tôi không nếm mùi bom đạn chiến tranh, không biết mặt mũi
anh chị du kích quân VC, hay Giải Phóng Miền Nam ra sao. Nhưng kinh nghiệm gia
đình của mẹ tôi đã bắt đầu gieo vào đầu tôi một nghi vấn không nhỏ. Mẹ tôi tảo
tần kinh doanh đủ mọi nghề, từ đóng hộp bọc nhung, may quần áo, mở hiệu sách,
đóng bìa da, nạm chữ vàng, mở nhà in để giúp thêm tài chính cho bố tôi. Không
may bà bị dính líu vào chuyện kinh tài VC, bà ký giấy đứng tên mua một cỗ máy
in nhỏ để bọn VC lợi dụng chở vào bưng. Nội vụ bị phát giác (thời Tổng thống
Ngô Đình Diệm, 1960), bà bị bắt giam. Nếu không nhờ các ông chú tôi làm cho sở
Mỹ tận tình cứu gỡ thì bà đã bị rục xương trong tù rồi. Vài tháng sau bà được
chính quyền thả cho về làm ăn buôn bán như xưa, không hề bị trù dập quản thúc
như chế độ CS thời nay. Một chi tiết nhỏ khiến tôi sửng sờ, khi biết rằng chẳng
có một đồng chí CS thân mến nào đã dám lộ diện cứu giúp mẹ tôi. Trong buổi ra
mắt DVD Ngày Trở Về (VN 2006) cố nhạc sĩ Phạm Duy đã ngậm ngùi tiết lộ rằng: “Trong chuyện Bà Mẹ Gio Linh (thật 100%), chỉ có hình ảnh một bà
mẹ già buồn bã thất thểu đi ra chợ lấy chiếc đầu người con trai đem về chôn
cất, không một cán bộ hay đồng chí CS nào có can đảm đứng ra làm chuyện đó”. Đó
là sự thật muôn thuở của cái gọi là “tình đồng chí trong thiên đường CS”
đấy!
- Nhưng nhờ đâu mà
tôi hiểu được vấn đề và không bao giờ bị CS tẩy não như nhiều người khác trong
Hội? Xin thưa, tôi phải cám ơn những kinh nghiệm quý báu qua 40 năm ròng làm
việc trong ngành công nghiệp khai khoáng, luyện kim và hóa dầu của Canada. Một
bài học quý giá nhất mà tôi không bao giờ quên, đó là khóa học “Relations Authentiques dans un milieu industriel” do
hãng cử đi tu nghiệp (Quebec 1980). Thật không ngờ trong khi chế độ XHCN chỉ
sản sinh ra những con người dối trá lừa lọc, thì xã hội tư bản lại tổ chức khóa
tu nghiệp huấn luyện nhân viên phải “giao tế trung thực, chân thật” vì
đó là mấu chốt căn bản trong một môi trường sản xuất công nghiệp nặng ở nhiều
tầng lớp khác nhau. Một bài thực tập trong khóa học làm cho tôi nhớ suốt đời,
đó là bài học “Tạo dựng niềm tin hỗ tương với nhau”,
lớp học gồm 12 người đến từ những phương trời xa lạ, không bao giờ quen nhau,
chia ra làm 6 nhóm 2 người. Người này bịt mắt người kia, dẫn nhau ra đường phố
đi một vòng 10 phút, không được nói chuyện với nhau, chỉ biết tuân lệnh dẫn
đường, không phản kháng. Sau 10 phút trở về lớp học, lại thay đổi vai, người
dẫn đường kẻ bịt mắt. Mục đích là cho khóa sinh hiểu rằng mối dây tin tưởng hỗ
tương rất quan trọng trong cơ sở làm ăn chung. Không tin nhau thì không làm
được gì hết.
- 2) Tư
thế và lập trường chính trị của tôi đối với Hội Yêu Nước và Nhà Nước VN:
- Trước hết tôi tự
xác định là “người Canada gốc Việt”, mang quốc
tịch Canada sau khi về thăm gia đình lần đầu 1979. Tôi không phải là Việt Kiều,
theo đúng nghĩa “người Việt mang quốc tịch VN sống ở hải ngoại”. Tôi không dám
vỗ ngực tự xưng “Yêu Nước VN” tuy rằng khi tôi ký tên gia nhập Hội Việt Kiều
Yêu Nước tại Canada năm 1973, chỉ vì lúc đó tôi còn là sinh viên VN, quốc tịch
VN, nghe theo tiếng gọi “yêu nước” và không hề hiểu biết chủ nghĩa CS ra sao,
chưa đủ kiến thức thâm sâu về lịch sử cận đại VN, nhất là sự thật về chiến
tranh tàn khốc đang diễn ra trên mảnh đất quê hương vào thời kỳ đó (1973). Tuy
vậy cụm từ “Yêu Nước” đã ám ảnh tôi từ khi vào Hội cho đến ngày hôm nay, vì tôi
nó cho phép tôi đo lường và đánh giá bản chất thật của những con người trí thức
vỗ ngực tự xưng YÊU NƯỚC ở Canada;
- Tôi quan niệm rằng
người trí thức mang bằng cấp Đại Học ở hải ngoại, sống và làm việc trong môi
trường tự do dân chủ Bắc Mỹ cần phải có đức tính trung thực, độc lập, hành xử
quang minh chính đại, lương tâm nghề nghiệp và can đảm phản biện khi cần để
đóng góp chất xám vào xã hội. Do đó người trí thức theo đúng nghĩa cũng nên
biết cám ơn khi được giúp đỡ hay biết xin lỗi và xấu hổ khi phạm lỗi;
- Tôi quan niệm rằng
bàn luận chuyện chính trị chẳng là là độc quyền của riêng ai, nhờ mạng lưới
Internet quảng bá, nhanh chóng và đơn giản bất cứ ai cũng có quyền tìm hiểu
thông tin thời sự và cùng nhau thảo luận nghiêm chỉnh để tự xác định lập trường
và chia sẻ ý kiến. Tôi cũng nghĩ rằng chuyện chính trị thời sự là những vấn đề
của người đang sống, đang hiện hữu bàn cãi với nhau. Người đã chết rồi chẳng
còn lý do gì để gây ảnh hưởng, do đó đừng đem những hình ảnh tôn thờ lãnh tụ
quá cố ra để làm bình phong chống chế cho thế đứng của mình;
- Sống và làm việc ở
Canada, tôi phải có ý thức tuân thủ pháp luật đất nước sở tại, không bao giờ
làm chuyện mờ ám đi ngược tiêu chuẩn nghề nghiệp. Do đó tôi không thể chấp nhận
những hành động thiếu minh bạch của tập đoàn lãnh đạo Hội cùng với một số Hội
viên nhằm thao túng Hội và cam tâm làm tay sai cho một vài quan chức cán bộ Nhà
Nước CSVN. Tôi sẽ đề cập đến sự kiện quan trọng này trong phần trình bày chi
tiết sau, với nhiều tang chứng không chối cãi được;
- Sẽ có người thắc
mắc rằng: “Tại sao đến giờ phút này, 2015-2016, tôi mới
nói lên những sự thật của Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?”. Xin
thưa rằng tôi đã từng có ý định phanh phui sự thật ra cộng đồng Người Việt Hải
Ngoại, từ lúc Hội đoàn này tan vỡ thành hai nhóm (1991), vì tôi không còn tư
thế gì trong 2 Hội này. Tôi đã thử tìm cách liên lạc với tờ báo Hợp Lưu (Hoa
Kỳ) để ướm lời. Họ cũng rất hoan nghênh ý định viết bài của tôi, nhưng sau đó
tôi đành giữ im lặng, vì những lý do sau:
a)- Thời điểm đó
(1991), Internet chưa phát triển sâu rộng và quảng bá, cho nên sự lựa chọn vào
một tờ báo duy nhất bị hạn chế, tôi không biết gì nhiều về Hợp Lưu, tưởng tượng
rất khó làm việc chung nếu có bất đồng chính kiến, nguy hiểm cho cá nhân tôi,
vì tôi còn đi làm xa, bận bịu gia đình, con cái;
b)- Thời điểm đó, tôi
chưa nắm vững nhiều tài liệu lịch sử cận đại, nhất là chưa biết gì về cái gọi
là “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958” hay “Hội Nghị Thành Đô 1991”, cho nên không thể đi sâu vào
vấn đề chính trị quan trọng;
c)- Thời điểm đó,
tình hình VN chưa ngã ngũ, ĐCS và Nhà Nước CSVN hãy còn che đậy được khá nhiều
“chuyện thâm cung bí sử”, xã hội VN chưa bị hỗn loạn như bây giờ, Biển Đông
chưa dậy sóng, TQ chưa muốn gây hấn với VN, chưa thấy xuất hiện những phong
trào đấu tranh tự do dân chủ, cho nên không trở thành nguyên nhân thôi thúc tôi
phải lên tiếng;
3)-
Phản động, Phản quốc, Ngụy quyền, Tay sai bù nhìn cho ngoại bang
Đến đây tôi xin phép
tạm dừng nói về “cái tôi đáng ghét” (Le Moi est haissable,
Blaise Pascal), để trình bày quan điểm của tôi về những cụm từ quan
trọng mà dân chúng miền Nam không bao giờ quên, đó là những bản án vu oan giá
họa mà nhà cầm quyền CS Hà Nội đã cố tình áp đặt lên đầu cổ họ sau ngày
30-04-1975. Để biện minh cho hành động gây tội ác chiến tranh xâm lược miền Nam
VN, CS Bắc Việt đã tuyên truyền gieo rắc trong dân chúng bốn tội lớn của chính
quyền VNCH, đó là: Ngụy quyền, tay sai bù nhìn cho
đế quốc Mỹ, Phản quốc và Phản động. Tôi xin phân tích và nhận định “Ai đích thực mang bốn tội đồ to lớn đó?”.
a)- Phản động là gì? Ai phản động?
Hãy thử vào truy cập Google từ ngữ “phản động” là gì:
Đây là cụm từ do phe XHCN sử dụng từ những phong trào
CS Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, dựa trên quan điểm “đấu tranh giai cấp”. Sau này
nhiều người theo chủ
nghĩa xã hội xem những người ủng hộ xã
hội tư bản là "phản động" vì lý thuyết của họ cho rằng nhân loại tiến
lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu của lịch sử (trích từ Google).
Theo Từ điển
bách khoa Việt Nam, phản động biểu hiện ở những việc làm chống lại các phong trào cách
mạng, dân chủ và giải phóng dân tộc; hăm doạ, săn lùng và đàn áp các tổ chức và
cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động; tệ phân biệt chủng tộc,
nhen nhóm và khích lệ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa chống
cộng (trích
từ Google).
Và quan sát tình hình kinh tế chính trị xã hội thế
giới sau hơn một thế kỷ (100 năm) sẽ thấy nhân loại tiến bộ vượt bậc nhờ rất
nhiều phát minh khoa học kỹ thuật từ các quốc gia phát triển tư bản đi đôi với
công nghệ ứng dụng, công nghiệp nặng, giúp cho đời sống con người được nhiều
tiện nghi, có cơ hội tiếp xúc trao đổi thường xuyên, gần nhau hơn. Mọi quyền tự
do cơ bản của người dân được bảo đảm trong các xã hội tư bản. Trong khi đó thì
các quốc gia bị đặt dưới chế độ XHCN hà khắc, thì cuộc sống ngày càng bị thu
hẹp, nghèo nàn, dân trí bị hao mòn vì chính sách tuyên truyền ngu dân, mỵ dân.
Trong một thế kỷ chế độ CS đã thanh trừng, tù đầy, đàn áp tiêu diệt hơn 100
triệu người trong các nhà tù, trại học tập cải tạo, con người chết dần mòn
trong đói khát, nghèo túng vì thiếu phương tiện. Tình trạng đạo đức xuống cấp
trầm trọng trong các nước theo XHCN, con người trở nên vô cảm, giả dối, lừa lọc
nhau dưới vỏ bọc tuyên truyền một chiều của Nhà Nước CS.
Quan sát kỹ tình trạng xã hội VN qua 40 năm sống dưới
chế độc XHCN sẽ thấy kinh tế lụn bại, xã hội bang hoại, tội ác lên ngôi, Nhà
cầm quyền áp dụng chính sách Công An Trị để theo dõi hăm doạ, săn lùng và đàn
áp các tổ chức và cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động. Tất cả
bằng chứng hiển nhiên đó cho phép kết luận rằng: “Chế độ XHCN dưới ách thống trị của ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay là
một chế độ phản động, đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại”. Thử
so sánh tình hình VN với Miến Điện hiện nay thì rõ ngay.
b)- Ai phản quốc?
Ít nhất có ba bằng chứng lịch sử hiển nhiên còn lưu
lại cho thế hệ trẻ VN tham khảo, đó là:
- Bức Công Hàm Phạm Văn Đồng ký
ngày 14-09-1958, công nhận chủ quyền TQ trên toàn thể khu vực Biển Đông, bao
gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên những yêu cầu công khai của TQ
(04-09-1958). Câu tuyên bố mở đầu trong bức công hàm đó là một bằng chứng ngắn
gọn, chắc nịch không thể chối cãi rằng “Nhà Nước VN thời VNDCCH (Cs
Bắc Việt) đã ngang nhiên đặt bút công khai ký một bản văn tự bán nước, nhượng
chủ quyền Biển Đảo cho ngoại bang TQ” để đổi lấy viện trợ dung
ống, đạn dược, nhiên liệu, nhu yếu phẩm nhằm mục tiêu xâm lược chiếm đóng toàn
thể miền Nam VN (dưới vĩ tuyến 17). Nếu không có viện trợ ồ ạt và tiếp tế đạn
dược tầm vóc lớn của TQ, thì quân đội miền Bắc (VNDCCH) không thể nào tiến công
thực hiện một cuộc chiến tranh vận động chiến kéo dài cả tháng trời, tràn khắp
mọi mặt trận, đối đầu với quân lực VNCH tinh nhuệ, vũ khí tối tân hơn;
- Trận hải chiến Hoàng Sa năm
1974, do TQ khởi động xâm lược biển đảo của VNCH, đã hiển nhiên
cho thấy Nhà Nước CS miền Bắc cùng với MTGPMN đã cố tình ngậm miệng chấp nhận
“hành vi xâm lăng của ngoại bang”. Đây là một sự im lặng cúi đầu ô
nhục “của bè lũ bán nước, phản quốc” không chối cãi được. Trận hải
chiến đó chứng tỏ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
và quân lực VNCH không bao giờ bán nước, không phản quốc, vì đã có can đảm điều
chiến hạm ra chống trả quân xâm lược, tuy rằng bị hạn chế đạn dược, nhiên liệu
vì viện trợ Hoa Kỳ bị cắt đứt (thể theo tinh thần Hiệp Định Paris, 1973). Đừng
quên rằng ở thời điểm đó quân đội miền Bắc CS và MTGPMN hãy còn hiện diện ở
miền Nam luôn đe dọa an ninh nhân dân miền Nam. Có nghĩa rằng quân đội VNCH đã
phải đối đầu với ba thế lực quân sự hung hăng tàn bạo, trong tư thế chiến đấu
đơn độc của mình;
- Bằng chứng hiển nhiên thứ ba là
trận hải chiến trên đảo Gạc Ma 1988, tàu chiến TQ tiến công ồ
ạt, quyết chiếm gọn đất đai lãnh thổ VN. Thay vì ra lệnh phản công, Đại Tướng
Bộ Trưởng Quốc Phòng lúc đó là Lê Đức Anh đã ra lệnh“cấm
không cho quân đội được phép cầm súng bắn trả”. Kết quả là 64
chiến sĩ hải quân đã phải đưa thân mình ra cho quân xâm lược TQ nã súng tiêu
diệt, một cách ô nhục, không khác gì 64 hình nộm bị đem ra làm bia cho quân xâm
lược tập bắn tự do”. Đây là một hành vi “phản quốc”
tồi tệ nhất trong lịch sử VN, nói theo lời của vị tướng về hưu
Nguyễn Trọng Vĩnh ngày đầu năm 2016 vừa qua;
Chỉ cần nêu lên ba chứng cứ lịch sử không chối cãi đó
tôi có thể kết luận rằng:“ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay là
kế thừa của một tập đoàn phản quốc, hại dân kể từ khi ông HCM về nước thành lập
Đảng”. Vì giới hạn của bài viết tôi chưa muốn phân tích nhận
định về “trận chiến Điện Biên Phủ 1954” xem như là một chiến thắng ngầm của
quân đội TQ mà ĐCS, ông HCM và ông Võ Nguyên Giáp cố tình che đậy, tôi sẽ trình
bày sau;
c)- Ai là tay sai, bù nhìn cho ngoại bang?
Xin phép nói ngay, đó là ĐCS và Nhà Nước XHCNVN
qua 70 năm theo đuổi con đường CS. Kể từ khi ông HCM lân la tiếp xúc
với lãnh đạo ĐCS TQ (Mao Trạch Đông) và Liên Xô (Staline) rồi tìm cách tổ chức
đưa người sang TQ học tập quân sự. Nhất nhất mọi điều ông HCM và tập thể lãnh
đạo đảng cộng sản và Nhà Nước CSVN đã chịu sự điều khiển, sai khiến của ngoại
bang CS. Từ chiến lược quân sự Điện Biên Phủ 1954, cho đến chính sách Cải Cách
Ruộng Đất, tiêu diệt hàng trăm ngàn người dân vô tội ngoài Bắc (1954-1956). Sau
này vì kinh tế kiệt quệ, nạn đói đe dọa mà HCM và ĐCS đã nhắm mắt để cho Phạm
Văn Đồng đặt bút ký Bức Công Hàm Bán Nước 1958. Cứ bình thản theo dõi diễn biến
Đại Hội ĐCS kỳ 12 vừa qua cũng thấy biết bao bằng chứng về bản chất tay sai bù
nhìn của nhà cầm quyền Hà Nội, thông qua vai trò “thái thú” của TBT Nguyễn Phú
Trọng.
d)- Ai là ngụy quyền?
Đó là tập đoàn lãnh đạo ĐCS và Nhà Nước XHCN VN từ hơn
70 năm qua. Ngụy có nghĩa là giả tạo,
giả dối, không thật, không có chính danh, không có tư cách công khai chính
thức. Trong trào lưu tiến hóa tự nhiên của nhân loại tiến bộ, một tập thể lãnh
đạo quốc gia phải tuyệt đối do toàn dâu bầu lên thông qua một cuộc đầu phiếu
công khai, gồm nhiều người ứng cử bàn cãi thuyết phục toàn dân. Sau một nhiệm
kỳ do Hiến Pháp xác định, nếu tập đoàn lãnh đạo không đủ phẩm chất đáp ứng
nguyện vọng toàn dân thì sẽ có một cuộc bầu phiếu khác thành lập để tìm người
tài giỏi hơn. Tất cả diễn biến công khai trong một bầu không khí tự do dân chủ
trọn vẹn, không mang hình thức trù dập, đe dọa, khủng bố ngầm.
Bao nhiêu yếu tố chính yếu đó đã chứng tỏ rằng “ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay hoàn toàn là giả dối”,
không hề do người dân tín nhiệm bầu lên bao giờ, mà chỉ là một màn kịch do
ngoại bang chi phối quyết định trước. Gọi đó là Ngụy quyền CS Hà Nội, không sai
tý nào.
Vài lời đề nghị với Cộng Đồng Người Việt (người Canada
gốc Việt):
Tôi chỉ có vài lời đề
nghị các Trang Mạng cộng đồng, các tờ báo truyền thông đang phổ biến ở Canada
hãy cho phép đăng tải bài viết này của tôi để rộng đường dư luận, để mọi người
nhận chân sự thật về cái gọi Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada. Đây là một chi
tiết rất quan trọng vì tôi muốn tránh một sai lầm trong quá khứ là “làm sao nhận diện được ai là CS, ai là Việt gian bán nước”,
tôi gọi đây là bài học Trọng Thủy Mỵ Châu thời nay, để góp phần tranh đấu giành
lại chủ quyền đất nước, bảo đảm tự do, dân chủ, Phát triển Dân Trí, Chấn hưng
Dân Khí, Cải thiện Dân Sinh cho người dân VN (Phan Chu Trinh).
Thành thật cám ơn,
15-04-2016
Canada
Lê Quốc
Trinh