Vào những ngày 26-27/1/2011, các nhà hải dương học Trung
cộng đã nhóm họp tại một hội nghị ở Thượng Hải để thảo luận về một dự án có tên
là “Biển Hoa Nam sâu thẳm” (South China Sea-Deep). Mục đích của dự án là thăm
dò, khám phá Biển Đông, nơi mà Trung cộng gọi là biển Hoa Nam hay biển Nam
Trung Hoa.
Theo một bài viết
trên tờ The Economist ngày 10/2, tổng kinh phí cho “Biển Đông sâu thẳm” là 150
triệu Nhân dân tệ (tương đương 22 triệu USD), được chi trả trong vòng 8 năm. Dự
án do Quỹ Khoa học Tự nhiên Quốc gia– một cơ quan Nhà nước có trụ sở tại Bắc
Kinh – thực hiện. Quỹ này không phải đơn vị duy nhất của Trung cộng nghiên cứu
về hải dương học: The Economist cho biết Trung cộng cũng sẽ chi 400 triệu Nhân
dân tệ (khoảng 58 triệu USD) để mở một trung tâm công nghệ hàng hải ở Thanh Đảo,
và đầu tư tới 1,4 tỷ Nhân dân tệ (hơn 200 triệu USD) xây dựng một mạng lưới đài
quan sát đáy đại dương tương tự như chương trình Neptune của Canada và Sáng kiến
Đài Quan sát Hải dương của Mỹ.
Điều đáng chú ý
là, cả ba dự án trên cũng không phải là một vài dự án nghiên cứu Biển Đông lẻ tẻ
của Trung cộng, mà chỉ là một phần trong công cuộc nghiên cứu và tuyên truyền về
biển đảo, chủ quyền lãnh thổ, v.v. từ những năm 50 của thế kỷ trước và ngày
càng tiến hành một cách bài bản, đồng bộ hơn.
Đặc
điểm nổi bật trong hoạt động nghiên cứu và tuyên truyền của Trung cộng là sự đồng
bộ và toàn diện từ Trung ương xuống địa phương, và nhất quán giữa truyền thông
chính thống (tức báo chí quốc doanh) và phi chính thống (tức mạng xã hội).
TỪ TRUNG ƯƠNG XUỐNG ĐỊA PHƯƠNG
Ông Phạm Hoàng
Quân – một trong số rất ít người ở Việt Nam hiện nay (có thể đếm trên đầu ngón
tay) nghiên cứu về cổ sử Trung cộng – cho biết, Trung cộng thực hiện nghiên cứu
và phổ biến kết quả nghiên cứu về chủ quyền biển đảo trên ba cấp: Trung ương, địa phương (tỉnh thành), và
hệ thống trường đại học.
Ở cấp
Trung ương, Trung cộng có hẳn một viện nghiên cứu rất lớn về Biển Đông là “Trung
Hoa Nam Hải Nghiên cứu Viện”, và nhiều cơ quan trực thuộc Trung ương khác như: Sở Nghiên cứu Nam Hải
(Viện Khoa học Trung cộng), Bộ Tư lệnh Hải quân, Sở Nghiên cứu Tình báo Khoa học
Kỹ thuật Hải dương… Hoạt động thường xuyên của các cơ quan này là tiến hành
nghiên cứu, biên soạn tài liệu, tổ chức hội thảo v.v. về chủ quyền biển đảo.
Ngay từ năm 1975, Viện Nghiên cứu Biển Đông đã xuất bản “Báo cáo sơ bộ về việc
điều tra tổng hợp khu vực quần đảo Tây Sa” (tức Hoàng Sa, theo cách gọi của Trung
cộng).
Ở cấp
tỉnh, mỗi tỉnh ven biển Trung cộng đều có nhiều cơ quan nghiên cứu về biển đảo. Hoạt động mạnh nhất có lẽ là các cơ quan thuộc Quảng
Đông, Phúc Kiến. Tháng 9 năm 1974, Bảo tàng Lịch sử Quảng Đông đã in “Hiện vật
khảo cổ Tây Sa”. Năm 1976, Sở Ngoại vụ Quảng Đông tung ra một loạt tài liệu: “Địa
lý các đảo Nam Hải”, “Vấn đề đối ngoại của nước ta về các đảo Nam Hải”, “Khái
luận về chủ quyền của nước ta đối với các đảo Nam Hải”, v.v.
Ở các
trường đại học, chẳng hạn Đại
học Hạ Môn trong hai năm 1975-1976 đã xuất bản trọn bộ sáu cuốn “Tổng hợp sử liệu
các đảo Nam Hải nước ta”. Khoa Địa lý Đại học Sư phạm Hoa Nam xuất bản cuốn
“Nghiên cứu địa danh các đảo Nam Hải” (1983). Đại học Trung Sơn xuất bản nghiên
cứu chuyên đề về “Lịch sử địa lý quần đảo Nam Sa” (1991). Các tác phẩm đều được
dịch sang tiếng Anh để đưa ra thế giới.
Bên cạnh đó, các
cơ quan Trung cộng cũng tiến hành dịch công trình nghiên cứu của nước ngoài
sang tiếng Trung để giới khoa học tham khảo. Chẳng hạn, Tập san Sử Địa, chuyên
đề về Hoàng Sa – Trường Sa, của Việt Nam ra đời năm 1974 thì năm 1978 có bản tiếng
Trung. Cuốn “Đất nước Việt Nam qua các đời” của học giả Đào Duy Anh (không nhắc
tới Biển Đông) cũng được Trung cộng dịch sang Trung văn với tựa đề “Việt Nam
cương vực sử”.
TỪ BÁO CHÍ CHÍNH THỐNG ĐẾN MẠNG XÃ HỘI
Chính
quyền Trung cộng huy động cả báo chính thống lẫn mạng xã hội vào cuộc “đấu võ mồm”
để tranh giành biển đảo với các nước. Báo chí chính thống có những tờ như Nhân Dân nhật báo, hay một tờ khét
tiếng chống Việt Nam lâu nay là Hoàn Cầu thời báo. Mạng xã hội thì có Sina
Weibo (tương tự như Twitter hay Facebook).
Khi cần “chiến”
với Việt Nam, Trung cộng sẵn sàng huy động tổng lực cả hai loại. Thật là giống
với cách làm của an ninh Việt Nam, hay nói đúng hơn, với nhà nước công an trị ở
Việt Nam: Khi cần “đấu tranh với các thế lực thù địch”, Nhà nước huy động cả
các cơ quan ngôn luận chính thức như báo Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân,
An Ninh Thủ Đô v.v. lẫn đội ngũ dư luận viên phủ sóng trên mạng bằng hàng chục
blog và hàng nghìn comment từ mỉa mai, khiêu khích tới mạt sát, chửi rủa. Tiếc
là đội ngũ dư luận viên của công an và tuyên giáo Việt Nam chỉ giỏi phồng mang
trợn mắt lăng nhục, ngậm máu phun… đồng bào mình thôi chứ chưa bao giờ dám
“oanh tạc” nước bạn – ngoại ngữ và trình độ là cả một vấn đề.
Sau sự kiện tàu
Bình Minh II của Petro Vietnam bị tàu hải giám Trung cộng cắt cáp, vào tháng
6/2011, một cuộc chiến tranh mạng đã diễn ra giữa hacker của cả hai bên, phía
Việt Nam có vẻ bại trận: Hàng trăm website của Việt Nam bị hacker tấn công, kể
cả trang web của Trung tâm biên phiên dịch thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Xem ra bắt nạt,
hành hạ người trong nhà mình bao giờ cũng dễ hơn đương đầu với thằng hàng xóm
to xác, xấu tính.
Cần hiểu rằng việc
Bắc Kinh bật đèn xanh, thậm chí chủ động huy động
blogger vào cuộc chiến truyền thông trên mạng để khẳng định chủ quyền, là một
cách làm rất khôn ngoan: Họ luôn luôn có thể nói rằng đó là quan điểm của
dân, không nhất thiết của chính quyền, và chính quyền không thể can thiệp, cấm
cản. Nói cách khác, blogger Trung cộng cứ việc chửi bới Việt Nam thả giàn mà chẳng
làm sao cả.
Nhìn về Việt Nam mà đối chiếu, ta sẽ thấy một sự
thật cay đắng: Nhà nước công an trị Việt Nam thẳng tay
đàn áp các blogger có tinh thần chống Trung cộng quá mạnh và có ảnh hưởng tới cộng
đồng. Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Bọ Lập, Phạm Viết Đào, Ba
Sàm, No-U Hà Nội… là những ví dụ nhãn tiền. Nói cách khác, lẽ ra phải để
blogger – kênh truyền thông không chính thống – lên tiếng mạnh mẽ, càng mạnh
càng tốt, thậm chí nói thay phần nhà nước ở những khía cạnh ngoại giao quá phức
tạp, thì Đảng và Nhà nước làm ngược lại: phá biểu tình, đánh đập, bắt người.
Trong rất nhiều trường hợp, công an Việt Nam, thay mặt cho Đảng và Nhà nước, đã
phá hoại thông điệp chung về bảo vệ chủ quyền và công lý, vốn rất cần được phổ
biến ra cộng đồng quốc tế.
Thật là không chỉ tàn ác mà còn ngu dốt nữa.