Giới thiệu 12 bài thơ “ĐỌC LẠI
NGƯỜI XƯA” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương
Trần
Từ Mai
Đầu tháng 4 năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị nhà
cầm quyền Cộng sản bắt, đưa vào giam ở khám Chí Hoà. Một số thơ ông làm trong
thời gian này (chẳng hạn bài Đường luật bát cú mở đầu bằng câu “Thấm thoắt vào
đây tháng đã tròn”) đã được chuyển về cho gia đình và đã được phổ biến. Đầu
tháng 9-1976, thấy sức khỏe của ông suy sụp, những người cầm quyền thả ông về để
chết ở nhà. Trong mấy tháng bị giam và trong ít ngày sau khi về tới nhà,
ông có làm một số thơ nữa. Theo nhà văn Hoàng Quốc Hải trong bài “Gặp bà Thục
Oanh, nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương” viết ngày 1 tháng 12 năm 1998, đăng trên tạp
chí Sông Hương (trong nước) số 126, tháng 08 năm 1999, thì ông
được bà Chương cho biết trong những ngày cuối cùng sau khi từ Chí Hòa về, thi
sĩ Vũ Hoàng Chương có “làm một bài về Nguyễn Thị Lộ, một bài về Hồ Xuân Hương,”
và “bài nào cũng da diết lắm”:
Bài viết của nhà văn Hoàng Quốc Hải sau cũng được in
lại trong cuốn Trắng án Nguyễn Thị Lộ (Hà Nội : NXB Phụ Nữ,
2004).
Đầu năm 2003, người viết những dòng này nhận được từ
bà Vũ Hoàng Chương (gửi từ địa chỉ ở Quận Bình Thạnh, Sàigòn) một bài thơ
thủ bút của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, không có nhan đề nhưng mở đầu bằng hai câu
thơ của Nguyễn Du:
Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên
Đây là hai câu 3-4 trong bài “Khất thực” (Xin ăn) của
Nguyễn Du, bài thứ 14 trong Thanh Hiên thi tập. Hai câu
trên có nghĩa:
Văn chương nào đã từng được việc gì cho
ta
Không dè vì đói rét phải nhận lòng
thương hại của người.
Với nét chữ run rẩy, yếu ớt, thi sĩ Vũ Hoàng Chương
viết không đủ nét. Ông viết “hà tàng” thay cho “hà tằng.” Đó là một bài lục bát gồm 12 câu, mở đầu bằng câu, “Chẳng dùng chi được văn tài,” kết thúc bằng
câu, “Khúc đâu lơ láo mảnh đời thi vương.”
Cuối bài ông viết: “Chí Hòa 1976” và
ký tắt ba chữ “V.H.C.”
Bà Vũ Hoàng Chương cũng gửi thêm một bài thơ của bà,
nhan đề “Làn gió giao thần.” Trong
bài, bà cho biết từ khi “cánh hạc tung trời”
thì “oanh ca lạc lõng” (khuê danh của
bà là Đinh Thục Oanh). Sau những “canh
khuya thao thức” với “gối lẻ âm thầm
thấm lệ rơi,” bà mang tâm trạng chán nản, không thiết sống nữa: “Long đong thân thế thiết chi đời.” Bà ký
tên dưới bài thơ và đề ngày 18 tháng 1 năm 2003.
Sau khi nhận được hai bài thơ trên (cùng một bức thư
4 trang và một tấm hình của bà Vũ Hoàng Chương, chụp trước bàn thờ cố thi sĩ),
người viết những dòng này đã chia sẻ với một số thân hữu từng có giao tình thân
với thi nhân họ Vũ: thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo (dạy chung với thi
sĩ Vũ Hoàng Chương ở trường Chu Văn An, Sàigòn), nhà văn Nhật Tiến (dạy chung với
thi sĩ Vũ Hoàng Chương ở trường Văn Lang, Sàigòn). Các vị vừa kể cũng chia sẻ lại
với một số thân hữu khác, và hai bài thơ trên đã được phổ biến một cách giới hạn.
Bà Vũ Hoàng Chương tạ thế năm 2005. Hai năm sau, một
người yêu thơ Vũ Hoàng Chương từ Mỹ về Việt Nam, đến thăm ông Vũ Hoàng Tuân,
người con trai duy nhất của ông bà Vũ Hoàng Chương ở Sàigòn. Khi trở lại Mỹ,
người bạn ấy trao tay cho người viết những dòng này 12
bài thơ, nói là “do thi sĩ Vũ Hoàng Chương sáng tác trong những tháng cuối của
cuộc đời, trong thời gian ở Chí Hoà và sau khi được đưa từ Chí Hòa về.”
Không muốn những bài thơ ấy bị tịch thu, thiêu hủy, ông bà Vũ Hoàng Chương đã
nhờ nhà thơ Hoàng Hương Trang giữ hộ từ năm 1976. Nay thấy đã khá lâu, nhà thơ
Hoàng Hương Trang đem trả lại, và bà Vũ Hoàng Chương cùng ông Vũ Hoàng Tuân muốn
thi sĩ Cao Tiêu cùng người viết những dòng này “tìm cách xuất bản ở ngoài nước,”
cho biết đó là “những bài thơ cuối cùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương.”
Trong 12 bài thơ này thì một bài có thủ bút của cố
thi sĩ. Đó là bài mở đầu bằng hai câu “Văn
tự hà tằng vi ngã dụng …” của Nguyễn Du đã nói ở trên. Các bài còn lại được
làm theo mô thức ấy: mở đầu bằng hai câu thơ của một nhân vật lịch sử hay văn học
trong quá khứ (chẳng hạn bài về Phạm Ngũ Lão mở đầu bằng hai câu “Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính
nhân gian thuyết Vũ hầu” của vị danh tướng họ Phạm). Sau đó là 12 câu lục
bát của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Tổng cộng gồm 12 bài, mỗi bài có 12 câu thơ Vũ
Hoàng Chương. Nhân thấy thi nhân họ Vũ từng dùng từ “Thập nhị nhân duyên” trong
những câu sau đây:
Từ đó dìu nhau mở lối
Vào thăm Đồng Tử Tuyết Sơn
Thập nhị nhân duyên cùng hỏi
Vì đâu Bướm xót Hoa hờn
(bài thơ “Tuyết Hận” trong thi tập Cảm
Thông)
người bạn đem 12 bài thơ từ Việt Nam sang Mỹ trao
cho chúng tôi đã đề nghị gọi những bài thơ ấy là “Thập nhị nhân duyên.”
Nhận thấy ý tưởng gửi trong những bài thơ di cảo này
quá kín đáo, thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo, và người viết những dòng
này đã cùng thảo luận, phân tích thật kỹ bài thơ về Bành Ngọc Lân (một tướng
lãnh Trung Hoa cuối đời Thanh), với kết quả là bài “Một bài thơ ngụ ý thật hàm súc của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” do Trần
Từ Mai viết với sự hội ý của hai vị vừa kể đã được phổ biến một cách giới hạn
trong mấy năm vừa qua:
Thi sĩ Cao Tiêu tạ thế đầu năm 2012. Sức khỏe giáo
sư Lưu Trung Khảo sút giảm một cách đáng kể cuối 2014, đưa tới việc ông quá
vãng cuối năm 2015. Trong ba người đảm nhận việc phân tích, chú giải những bài
thơ với ý nghĩa kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, chỉ còn một người. Sự việc không có thủ bút của cố thi sĩ
cho 11 bài “Đọc lại người xưa” (trừ bài về Nguyễn Du) khiến người viết những
dòng này cũng cảm thấy dè dặt trong việc tiếp tục giới thiệu và phổ biến.
Nay được tin trong Tuyển tập Văn xuôi Hoàng
Hương Trang, xuất bản trong nước năm 2012, nữ thi sĩ Hoàng Hương Trang đã
cho in trong phần “Phụ lục” cả 12 bài “Đọc lại người xưa” của thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Bà cho biết khi tới thăm thi nhân họ Vũ sau khi ông được thả từ Chí Hoà
về, bà đã được Vũ Hoàng Chương đọc cho nghe 12 bài thơ ấy để chép lại. Bà cũng
đã đọc lại cho ông bà Vũ Hoàng Chương nghe để được xác nhận là đúng trước khi
đem về cất giữ. Lời thơ trong những bài này hệt như trong những bài thi sĩ Cao
Tiêu, giáo sư Lưu Trung Khảo và Trần Từ Mai nhận được từ gia đình thi
sĩ Vũ Hoàng Chương năm 2007. Chuyện nhà thơ Hoàng Hương Trang được ông bà
Vũ Hoàng Chương giao cho giữ 12 bài thơ ông làm trong thời gian bị giam ở Chí Hoà
và sau khi về đến nhà năm 1976 là điều có thật.
Mối thân tình giữa ông bà Vũ Hoàng Chương và nhà thơ
Hoàng Hương Trang cũng dễ đưa tới sự kiện ấy.
Hoàng Hương Trang tên thật là Hoàng Thị Diệm Phương,
sinh năm 1938 ở Vân Thê, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Bà tốt nghiệp trường
Cao Đẳng Mỹ Thuật năm 1960, trường Sư Phạm Mỹ Thuật năm 1961. Bà từng dạy hội họa
ở nhiều trường Trung học, và tại trường Đại học Mỹ thuật Sàigòn. Bà được giải hội
họa trong một kỳ thi ở Huế năm 1958, và là tác giả 6 tập thơ từ 1964 đến 2002,
trong đó có 4 tập xuất bản trước năm 1975:
Khép đôi mi nhỏ (1964)
Linh hồn cỏ biếc (1968)
Túy ca (1972)
Hợp tuyển (1974)
Thơ của bà được in chung trong hơn 30 tuyển tập thơ
văn trong và ngoài nước. Bà cũng có tên trong cuốn Thi nhân Việt Nam thế
hệ 1954 – 1973 của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh (Sàigòn : Sống Mới,
1974).
Như thế Hoàng Hương Trang trẻ hơn Vũ Hoàng Chương 23
tuổi (1938-1915), ít tuổi hơn một số môn sinh của ông. (Trên giấy tờ, Vũ Hoàng
Chương được ghi là “sinh năm 1916” nhưng thật ra ông sinh năm 1915). Bên cạnh mối
liên tài giữa hai nhà thơ, Vũ Hoàng Chương lưu tâm hơn tới Hoàng Hương Trang có
lẽ từ khi bà cho in tập Túy Ca năm 1972, nhắc ông nhớ đến tập Thơ
Say với “Bài ca tận túy” của ông. Tinh thần "đồng thanh đồng
khí" giữa hai nhà thơ chung một nguồn cảm hứng đã được Vũ Hoàng
Chương nói rất rõ trong bài thơ thủ bút “Cảm đề Tuý ca,” ông viết để tặng Hoàng
Hương Trang năm 1972:
“Bài ca Tận túy” đi hoang
Biết đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay.
Cùng làm thơ, chung một nguồn cảm hứng, lại
nhận thấy trong danh hiệu có những chữ giống nhau, Vũ Hoàng Chương dễ dàng nhận
thấy nơi Hoàng Hương Trang một “trần ai tri kỷ.” Cảm
động trước thịnh tình của một nhà thơ tiền bối, Hoàng Hương Trang quan tâm thăm
nom Vũ Hoàng Chương sau khi ông bị Cộng sản bắt giam. Biết rằng để thơ ở nhà sẽ
không an toàn, việc giao cho Hoàng Hương Trang giữ hộ những bài thơ cuối cùng
là một điều “hợp tình hợp lý” đối với ông bà Vũ Hoàng Chương. Nhờ thế những bài
“Đọc lại người xưa” Vũ Hoàng Chương làm ra trong thời gian bị giam ở Chí
Hoà và sau khi về nhà năm 1976 đã không bị mai một.
Trong 12 bài thơ chúng tôi nhận được năm 2007, thì
bài về Nguyễn Du có thủ bút của tác giả. Hai bài về Nguyễn Thị Lộ và Hồ Xuân
Hương đã được bà Vũ Hoàng Chương đề cập tới với nhà văn Hoàng Quốc Hải như đã
nói trên. Bài về Bành Ngọc Lân là một trường hợp đặc biệt. Họ Bành là một viên
tướng Trung Hoa cuối đời Thanh, không có liên quan gì tới Việt Nam. Số người Việt
biết tới ông ta không nhiều. Hiểu tường tận về cuộc đời Bành Ngọc Lân để đưa ra
một thi phẩm đặc sắc về ông, có lẽ chỉ nhà thơ có kiến thức uyên bác Vũ
Hoàng Chương mới làm nổi. Đó là lý do thi sĩ Cao Tiêu, giáo sư Lưu Trung
Khảo vả tôi cùng tin rằng bài thơ ấy đúng là của Vũ Hoàng Chương.
Trong 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” của
Vũ Hoàng Chương, có 6 bài lấy cảm hứng từ tác phẩm của những nhân vật lịch
sử hay văn học Việt Nam: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát. Những bài còn lại lấy cảm xúc từ tác phẩm của
một số nhân vật lịch sử hay thi sĩ Trung Hoa: Hán Vũ đế, Thôi Hộ, Đỗ Mục, Đỗ
Thu nương, Trần Đào, Bành Ngọc Lân.
Năm 2012 ở trong nước, nhà thơ Hoàng Hương Trang mới
chỉ làm công việc in ra những bài thơ ấy. Theo quan niệm của chúng tôi, nếu phân tích, chú giải các điển cố và trình bày được ẩn
ý của tác giả (như trường hợp bài về Bành Ngọc Lân), người đọc sẽ thấy rõ giá
trị của những bài thơ ấy hơn. Đó là những điều chúng tôi sẽ cố gắng làm.
Kèm theo phía sau là hai bài thơ:
- “Cảm Đề Túy Ca,” thơ thủ bút của Vũ Hoàng Chương
viết tặng Hoàng Hương Trang, đề ngày 16 tháng 6 năm 1972.
- “Chiều Say Nhớ Hoàng,” thơ Hoàng Hương Trang, sáng
tác nhân ngày giỗ thứ 30 của Vũ Hoàng Chương, 14 tháng 8 âm lịch năm Bính Tuất,
2006.
Trần
Từ Mai