„…mọi người đều biết rõ rằng: Con người sống dưới chế độ cộng sản,
xem ra không có quyền làm người. Họ chỉ có một cái quyền làm nô lệ cho cộng sản
mà thôi, ngay cả đoàn đảng viên cộng sản cũng không có ngoại lệ.“
Quyền làm Người của người Việt Nam
Bảo Giang
Theo định nghĩa của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền,
chúng ta thấy những quyền làm người của con người đã được xác định như sau.
Điều 2. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và
tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan
điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các
địa vị khác.
Điều 3. Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và
an toàn cá nhân.
Điều 4. Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức
làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm.
Điều 5. Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một
cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. (TNQTNQ).
Từ bảng chỉ dẫn này, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem
cơ bản luật pháp của Việt Nam từ 1954 đến nay ra sao? Và xem, ở nơi đó họ hiểu
và định nghĩa quyền làm người như thế nào? Hơn thế, để xem chúng ta có năng quyền
của con người hay không?
I. Hiến Pháp của Việt Nam
Cộng Hòa (1956) xác định rằng:
“Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện
nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan; Nguyện vọng ấy là: Củng
cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị; Bảo vệ tự do cho mỗi người
và cho dân tộc;”
Điều 9: Mọi người dân đều có quyền sinh sống tự do
và an toàn.
Điều 10: Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ tù đày,
một cách trái phép.
Điều 11: Không ai có thể bị tra tấn hoặc chịu những
hình phạt hay những cách đối xử tàn bạo, bất nhân, hoặc làm mất phẩm cách.
Điều 16: Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền
này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng.
Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí để
tạo thành một dư luận xác thực và xây dựng mà Quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ chống
lại mọi hành vi xuyên tạc sự thực.
Điều 17: Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng,
tự do hành giáo, và tự do truyền giáo, miễn là sử dụng quyền ấy không trái với
luân lý và thuần phong mỹ tục.
II. Hiến pháp Đệ Nhị Cộng
Hòa (1967)
“Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế
đến lãnh thổ qua phân và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch
sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết
lập một chánh thể Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết
dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc Lập Tự Do Dân Chủ trong công bằng,
bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau”.
Điều 4. 1- Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng
sản dưới mọi hình thức.
2- Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực
hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ.
Điều 6. 1- Quốc Gia tôn trọng nhân phẩm.
2- Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản và
danh dự của mọi công dân.
Điều 9. - Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm
đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và
không trái với thuần phong mỹ tục.
Điều 12. 1- Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng,
tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không
phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục.
Điều 13. 1- Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp
và lập hội trong phạm vi luật định.
Xem ra, dù thời gian là ngắn ngủi nhưng
dưới triều đại của Việt Nam Cộng Hòa đã vẽ được những nét đẹp, rất khởi sắc và
người dân miền Nam Việt Nam được hưởng khá đầy đủ những quyền hạn được quy định
trong Hiến Pháp và bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Điển
hình, các cuộc biểu tình, kéo nhau xuống đường đả đảo, hoan hô, kể cả việc chống
chính phủ, chống chiến tranh, không một cảnh sát nào dám bắt người, đánh người
trong những cuộc biểu tình. Ngoại trừ biết rõ chúng lạm dụng hai chữ tự do, hoạt
động cho Việt cộng như trường hợp của Huỳnh tấn Mẫm, Thích trí Quang, Lê văn
nuôi, Thích đôn Hậu, Trương bá Cần… hay bọn Hoàng phủ ngọc Tường, ngọc Phan, thị
Trinh và băng đảng giết người tại Huế vào dịp tết mậu thân 1968, sẽ bị truy đuổi,
bị bắt. Lý do, chúng hoạt động cho CS, chống lại an ninh của đồng bào, chống lại
luật pháp của quốc gia. Ngoài những trường hợp cá thể này, nhìn chung, quyền của
con người được tôn trọng và được bảo vệ trong thời Việt Nam Cộng Hòa.
III. Quyền con người trong
thời Cộng sản, còn gọi là thời đại Hồ Chí Minh (Hồ Quang) thế nào?
Trước hết, ngay sau khi chiếm được miền bắc, Hồ Chí
Minh cũng chế tác ra các bản văn gọi là Hiến Pháp vào các năm 1946, 1959, 1980
(sửa đổi 2001) và 2013. Những bản văn có trước 1975 chỉ áp dụng cho miền bắc Việt
Nam, bản văn từ 1980 về sau được áp đặt trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam:
Điều 2: 1. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Trung quốc.
(1)
Điều 3: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện… ở hải ngoại.(2)
Điều 25: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này là... ở hải ngoại.
(3)
Điều 24: 1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật… ở ngoại quốc.(4)
Điều 25: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình… ở hải ngoại. (5). (Những chữ
nghiêng trong ngoặc (1 đến 5) mang tính thực tế áp dụng hơn là có ghi chép
trong bản văn.)
IV. Sinh hoạt của những quốc
gia tiêu biểu trên thế giới và phúc lợi của dân:
1. Hoa Kỳ:
Quốc gia này có hơn 300 triệu dân, chính phủ gồm: 1 tổng thống, 1 phó tổng thống, 15 bộ
trưởng, 14 thứ trưởng (bộ Giáo Dục không có thứ trưởng). Các đảng
phái hoạt động độc lập và không bao giờ được sử dụng tiền ngân sách nhà nước.
2. Nhật Bản:
Một quốc gia tại Châu Á, có hơn 120 triệu dân. Chính phủ bao gồm 1 thủ tướng, 1 phó thủ tướng (kiêm bộ trưởng), 16 bộ trưởng, 16 thứ trưởng.
Các đảng phái hoạt động độc lập và không bao giờ được sử dụng tiền ngân sách
nhà nước.
3. Việt Nam Cộng sản:
Đây là một quốc gia có hơn 90 triệu dân, theo chế độ cộng sản tại Á Châu. Nhà nước gồm: 1 chủ tịch nước, 1 phó chủ tịch nước; 1 thủ
tướng, 5 phó thủ tướng, 19 bộ trưởng, 122 thứ trưởng. Đảng Cộng Sản trực tiếp lãnh đạo chính phủ (qua Ban cán sự đảng)
và đảng Cs toàn quyền sử dụng ngân sách nhà nước trong việc điều hành đảng,
kể cả việc trả lương cho các đảng viên!
4. Kết quả: phúc lợi cho người
dân.
- Tổng thu nhập quốc nội trên đầu người dân (GDP per
capita) ở Hoa Kỳ là $53,041.98 USD/năm.
Tỷ lệ thất nghiệp hưởng trợ cấp xã hội 6.1%.
- Tại Nhật Bản, thu nhập trên đầu mỗi công dân bình
quân $38,633.71 USD/năm. Tỷ lệ thất
nghiệp 3.6%. hưởng trợ cấp xã hội.
- Việt Nam CS thu nhập trên đầu mỗi công nhân là: $1,910.50 USD/năm. Theo báo cáo không
thể kiểm tra của nhà nước Việt cộng, tỷ lệ thất nghiệp
ở Việt Nam chỉ là 3.1%? Không có trợ cấp thất nghiệp.
5. Thực tế sinh hoạt trong đời
sống và chính trị.
Ở Hoa Kỳ và Nhật Bản, Anh, Pháp… người
dân được tự do biểu tình về việc đòi tăng lương hay phản kháng những
vần đề chính trị, kể cả việc phản đối chính sách của chính phủ đưa ra. Họ có
quyền nêu đích danh những nhân vật đang lãnh đạo đất nước ra trong các biểu ngữ
khi đi biểu tình. Họ không thể bị truy cứu vì các cuộc biểu tình.
Riêng tại Việt Nam, biểu tình bất cứ dưới
hình thức nào, kể cả việc chống lại những cơ sở của ngoại quốc hà hiếp công
nhân, hay phá hủy môi trường sống của người dân đều bị cản trở.
Ở đây có hệ thống là bảo vệ, an ninh, công an sắc phục của nhà nước được tự do
đánh đập và bắt bớ người đi biểu tình. Người đi biểu tình có thể bị bắt tại chỗ
hay tại tư gia. Khi bị bắt có thể bị đưa ra toà và có thể bị kết án là chống
chính quyền.
6. Công Quyền của người dân
dưới trào cộng sản.
Ở Việt Nam nhà nước CS không đưa ra lệnh cấm, trái lại,
trong văn bản gọi là hiến pháp của họ còn công nhận quyền biểu tình của người
dân. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cuộc biểu tình nào, dù lớn dù nhỏ, mà
nhà nước này không ngăn cản phá hoại và bắt bớ người đi biểu tình, mặc dù những
cuộc biểu tình ấy là ôn hòa, chống các tập thể kinh tế phá hoại cuộc sống của
người dân hay việc láng giềng xâm lấn bờ cõi Việt Nam.
Người đi biểu tình ở đây, không bao giờ dám căng lên
những biểu ngữ chống nhà nước CS, hay nêu đích danh những tội phạm trong giới cầm
quyền với những tệ nạn của nó gây ra. Tệ hơn, tất cả những cuộc gọi là biểu
tình, tụ họp đông người đều bị công an CS đàn áp tàn bạo và bị bắt bớ. Bị đánh
đập và bị quy kết vào những tội như xâm phạm an ninh quốc gia với những bản án
nặng nề. Điển hình là trường hợp của lớp sỹ phu, trí thức như Nguyễn văn Đài,
Lê thị công Nhân, Lê công Định, Duy Thức, Tạ phong Tần… là những bằng chứng.
Trong khi đó, những trường hợp này ở vào thời trước
30-4-1975, nếu có cho thêm tiền thì chính quyền của miền nam, một chính quyền
mà tập đoàn CS miền bắc phùng mang, trợn mỏ lên rêu rao là theo chân đế quốc,
làm hại đồng bào thì tập đoàn ấy cũng xin chắp tay bái chào. Các ông muốn đi
đâu, nói gì thì nói, không một viên Cảnh sát nào dám đụng vào. Đã thế, tất cả
báo chí của miền nam còn ghi chép từng lời nói, từng bước chân của họ cho mọi
người biết. Nay dưới thời đại “quang vinh của Hồ Quang” cũng gọi là Hồ chí Minh
và chị em ta từ Tàu sang thì tù… tù…. vào tù tuốt. Riêng báo chí VC thì chỉ có
một con đường để đi: Tiếp tay lên án, không hề có lấy một chữ công đạo, làm người.
Theo đó, trong hơn 60 năm sống dưới chế độ bạo tàn
CS, chưa hề có một cuộc biểu tình nào mang tính chính trị chống đối nhà nước CS
mà người dân ở đây dám biểu lộ. Nếu loại biểu tình này được tôn trọng như ở Hoa
Kỳ, như ở miền Nam trước 1975 thì tôi dám khẳng định là, chỉ cần trong vòng ba
mươi ngày sửa soạn, tất cả mọi đường phố của Việt Nam từ bắc chí nam, từ đồng bằng
lên cao nguyên, không còn có một chỗ trống để trương lên những biểu ngữ, hình ảnh
đả đảo Việt Cộng, đả đảo bọn HCM bán nước, đả đảo Trung cộng xâm lược. Và dĩ
nhiên, chẳng có một người Việt Nam nào vắng mặt trong các cuộc biểu tình này, kể
cả một số lớn cán cộng và vợ con của họ nữa. Trái lại, tất cả mọi người sẽ xuống
đường vì nghiệp nước. Họ sẽ đi từ bắc chí Nam để nói lên tiếng nói của dân tộc
mình và nhà nước CS sẽ không thể tồn tại sau 30 ngày này.
Từ đó, không phải riêng ai, nhưng mọi người đều biết rõ rằng: Con người sống dưới chế độ cộng
sản, xem ra không có quyền làm người. Họ chỉ có một cái quyền làm nô lệ cho cộng
sản mà thôi, ngay cả đoàn đảng viên cộng sản cũng không có ngoại lệ. Đảng
là kẻ muốn nắng có nắng, muốn mưa có mưa. Luật lệ của xã hội tuy có được viết
ra, nhưng không được tôn trọng và thi hành. Trái lại nó nằm trọn trong tay bọn
hạ cấp từ trung ương cho đến phường khóm, xã thôn. Từ đó, quyền công dân, quyền
làm người của người Việt Nam trong thời Cộng sản chỉ là chuyện của những kẻ áo
rách, lê la đến trước cửa nhà đại phú, giàu có để xin chút cơm thừa canh cặn.
Thích thì nó bảo đầy tớ ra cho chút ít. Lúc khó chịu thì nó sai đầy tớ, xua chó
ra đuổi đi. Cuộc sống của người dân là bắt buộc phải có chữ gian truân và khốn
nạn do CS cấp phát.
V. Việt Nam ngày mai?
Nếu như hôm nay chúng ta không dám có một lần đứng dậy
mà đi. Không dám trả lời cho những hành động bạo cuồng của tập đoàn cộng sản
này thì con cháu chúng ta sẽ là những thân giun thế chỗ chúng ta để cho tập
đoàn CS/ HCM, rồi Tàu cộng dày xéo mà thôi. Ngoài ra, không có một ngoại lệ nào
khác. Bởi lẽ:
Ở đâu có cộng sản, ở đó không có quyền con người.
Ở đâu có cộng sản, nơi đó không có tự do, công bằng, công lý.
Ở đâu có cộng sản, ở đó không có độc lập tự chủ.
Ở đâu có cộng sản, ở đó chỉ có gian trá và tội ác.
Ở đâu cộng sản nắm quyền, ở đó chỉ có nô lệ.
Ở đâu có cộng sản, ở đó vĩnh viễn có lầm than.
Ở đâu có cộng sản, ở đó không còn luân thường đạo lý.
Ở đâu có cộng sản, ở đó nhân bản tính của con người bị hủy diệt.
Ở đâu có cộng sản, ở đó không có chữ bình an.
Ở đâu có cộng sản, ở đó ước muốn Tự Do, Công Lý sẽ gặp ngục tù…
Đó là những sự thật đã được minh chứng trên phần đất
Việt Nam trong hơn 70 năm qua, mà tất cả mọi người Việt Nam đều nhận biết. Từ
đó, tôi thách thức tất cả mọi kẻ tự xưng là lãnh đạo CS, là lý thuyết, là nhà
“trí thức” của môn phái tàn độc này, dám công khai phản chứng được một trong những
điều tôi viết trên đây là sai, trái. Nếu chứng minh được, tôi sẽ công khai xin
lỗi mọi người và bẻ bút. Nhưng nếu không dám minh chứng, hoặc không chứng minh
được thì qúy vị nếu còn một chút nhân tính, cũng nên tự thiến đi thì hơn!
Hỡi đồng bào Việt Nam, đến nay chúng ta chỉ còn một
lối đi duy nhất mà thôi. Hãy một lần nắm lấy tay nhau, khởi đầu từ láng giềng,
bằng hữu rồi trải rộng trên khắp sông nước Việt Nam, rồi cùng nhau đi lên, tái
lập lại quyền làm người của chúng ta. Hãy nhớ, Tổ Quốc này thuộc về chúng ta và
con cháu chúng ta. Tổ Quốc này thuộc về con người và những người bảo vệ quyền
con người. Tổ Quốc này không thuộc về CS và lý thuyết bởi khỉ mà ra. Theo đó, nếu
chúng ta cúi đầu trước bạo quyền CS là chính chúng ta từ bỏ quyền làm người, rồi
tự đưa con cháu chúng ta vào vòng nô lệ, bạo tàn của chúng.
Chúng ta hãy nói, hãy nhắc nhở với nhau rằng: Chỉ
khi chúng ta có quyền làm người, hành xử như quyền con người, chúng ta mới có một
đời sống đáng sống. Chỉ khi chúng ta cùng lên đường, mới có một ngày thành
công. Cũng thế, chữ Tự Do, nghĩa của Độc Lập, của Công Lý và Nhân Quyền không
phải là báu vật để cho không, biếu không. Không một ai có thể đơn lẻ van xin được
Độc Lập, Tự Do và Công Lý. Nhưng phải đòi hỏi bằng sức mạnh của cả dân tộc
mình.
Như thế, nếu chúng ta cùng
đứng dậy bên nhau hôm nay là chúng ta đưa chúng ta và con cháu chúng ta vào cuộc
tiếp nối, và phát triển quyền làm người của con người. Ở đó, chúng ta sẽ
có một đời sống đáng sống trong một đất nước Độc Lập, Tự Do, Hòa Bình và Công
Lý. Ngoài ra, chỉ có một cái vòng đỏ với hai chữ Việt Cộng xiết vào cổ chúng ta
và con cháu chúng ta mà thôi.
Bảo Giang