Thư kêu gọi gây quỹ cho Cap Anamur giúp chống dịch bệnh
Ebola tại Freetown
Vi khuẩn Ebola xuất xứ
nguyên thủy từ rừng nhiệt đới tại Trung Tâm Phi Châu và Đông Nam Á. Cho đến bây
giờ người ta vẫn nghĩ là các loài dơi ở vùng nhiệt đới là loài động vật đầu tiện
chứa vi khuẩn Ebola trong mình . Vi khuẩn này được truyền qua các loài linh trưởng
khi chúng nhặt ăn các hoa quả rơi vãi của dơi . Con người bị lây nhiễm vi khuẩn
Ebola là do sự tiếp xúc va chạm vào cơ thể các động vật hoang dã đã bị nhiễm vi
khuẩn hay đã chết như khỉ, đười ươi , dơi , sơn dương và nhím. Một số sắc tộc ở
Phi Châu có thói quen sử dụng các động vật hoang dã làm
thực phẩm (Buschfleisch ) , đó cũng là một yếu tố làm lây lan vi khuẩn sang
loài người.
Vi khuẩn này được
phát hiện đầu tiên ở người bệnh vào năm 1976 tại Phi Châu .
Trong thống kê năm đó
cho thấy trong 55 làng ở dọc theo bờ sông Ebola thuộc thị trấn Yambuku nước
Zaire ( từ năm 1997 đổi thành nước Dân Chủ Cộng Hòa Kongo ) có 318 người bị nhiễm
vi khuẩn , trong số người bị bệnh này có 280người bị chết, đưa tỷ lệ tử vong đến
88%. Từ đó người ta lấy tên dòng sông này để đặt tên cho vi khuẩn đó .
Vi khuẩn Ebola có
hình như sợi tơ dài đến 0,014mm , có khả năng xâm nhập và sinh trưởng nhanh
chóng trong các tế bào của chủ thể và tạo nên một khối vi khuẩn ( Viruskristal
) phát triển ra từ nhân tế bào làm hủy hoại tế bào đó, khiến các vi khuẩn được
phóng sinh ra khỏi tế bào để tiếp tục chu kỳ hủy hoại mới.
Sự lây nhiễm từ người
qua người được xác định là do sự va chạm trực tiếp với cơ thể người bệnh hoặc
do sự tiếp xúc với máu , chất tiết hay nội tạng của người bệnh . Người ta nhấn
mạnh rằng máu , phân và chất ói mửa của bệnh nhân là những nguồn lây nhiễm cực
mạnh. Ngoài ra vi khuẩn còn được tìm thấy trong sữa mẹ , nước tiểu và tinh dịch
của người bệnh . Sự lây nhiễm vi khuẩn qua nước bọt , nước mắt vẫn chưa được
xác định chắc chắn. Vi khuẩn trong mồ hôi bệnh nhân vẫn chưa được tìm thấy.
Người bị nhiễm vi khuẩn
Ebola có khả năng truyền bệnh ngay sau khi có triệu chứng đầu tiên của căn bệnh
. Người ta cũng đã tìm thấy vi khuẩn trong tinh dịch của một nam bệnh nhân sau
khi khỏi bệnh đã 10 tuần. Vi khuẩn Ebola không thể tự bay trong không khí ,
nhưng khi người bệnh ho hay hắt hơi thì những chất tiết từ miệng và đường hô hấp
bị phun văng vào không khí bám vào quần áo dồ vật, sàn nhà, tường , cột …và những
người đối diện. Vi khuẩn Ebola có thể sống bám trên đồ vật ở nhiệt độ bình thường
hoặc cho tới 4°C.
Triệu
chứng nhiễm vi khuẩn Ebola:
Từ khi bị lây nhiễm
vi khuẩn cho tới khi phát bệnh kéo dài từ 2 tới 21 ngày , thường thường là khoảng
8-10 ngày. Có 3% trường hợp kéo dài đến 22-42 ngày.
Triệu chứng phát bệnh
trải qua 2 giai đoạn:
Giai
Đoạn 1: có dấu hiệu như cảm cúm với nóng sốt , rét run , đau đầu, đau bắp
cơ . Có khi ói mửa hoặc tiêu chảy , cơ thể bải hoải , đau bụng dưới , bỏ ăn , đau
khớp xương , mọc mụn đỏ trong miệng , sưng đỏ tròng mắt , đau họng khi nuốt .
Ngoài ra có thể kèm theo triệu chứng chóng mặt , đau cổ , sưng phù . Sau vài
ngày có thể có triệu chứng xuất huyết dưới da hay trong tròng mắt.
Sau những triệu chứng
kể trên thì người bệnh có cảm giác hồi phục khỏe lại chừng 24-48 tiếng đồng hồ.
Giai
Đoạn 2: Cơn bệnh lại tái phát một cách bùng nổ với thân nhiệt tăng đến trên
38,5°C và xuất huyết từ niêm mạc , từ các cơ quan nội tạng : bao tử ruột , thận
, gan đưa bệnh nhân nhanh chóng tới tình trạng sốc với trụy tim mạch và trụy chức
năng nhiều cơ quan nội tạng cùng một lúc dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong hiện tại
là 25-90%
Chữa
trị:
Cho tới bây giờ ngoài
việc cách ly để tránh lây lan thì việc chữa triệu chứng vẫn là chính yếu : giảm
sốt , bù lượng nước và chất khoáng bị hao hụt , điều chỉnh lượng đường huyết cân
bằng.
Năm 2014 có 2 người
Hoa Kỳ bị nhiễm vi khuẩn Ebola đã được chữa trị thành công với dược chất kháng
thể ZMapp® do viện dược phẩm Mapp Biopharmaceutical ở San Diego phát minh và điều
chế.
Tại nước Đức chỉ có một
số Bệnh Viện có khả năng điều trị bệnh nhân nhiễm vi khuẩn Ebola theo đúng quy
định cách ly của Bộ Y Tế Liên Bang như sau:
Charité tại Berlin
Universitätsklinikum Düsseldorf
Universitätsklinikum Frankfurt am Main
Universitätsklinikum Hamburg-Eppendorf (UKE)
Klinikum St. Georg Leipzig
Klinikum Schwabing tại München
Robert-Bosch-Krankenhaus tại Stuttgart
Missionsärztliches Institut tại Würzburg
Phòng
dịch bệnh :
Điều quan trọng là tẩy
rửa bằng thuốc diệt vi khuẩn ( Viruzid ) các đồ vật , mặt sàn nhà và tường vách
,cột, cửa.. Ngưòi có trách nhiệm săn sóc bệnh nhân phải mặc y phục cách ly kín
hơi che phủ từ đầu đến chân và có hệ thống máy hút không khí (qua máy lọc vi
khuẩn) vào trong lớp y phục để thở. Tuy nhiên vì kín hơi và nhất là ở vùng nhiệt
đới nóng bức thì bộ y phục cách ly này chỉ được mặ c tối đa là 40 phút với lý
do có nguy cơ nghẹt thở.
Nơi săn sóc bệnh nhân
được chia ra 3 vòng khoanh theo nguyên tắc Barrier Nursing = Krankenpflege mit
Absperrung :
*vòng 1 là nơi tiếp
xúc trực tiếp với bệnh nhân : bắt buộc phải măc y phục cách ly.
*vòng 2 là nơi người
mặc y phục cách ly được xịt thuốc diệt vi khuẩn toàn diện từ đầu đến chân sau
khi săn sóc bệnh nhân.
*vòng 3 là nơi cởi y
phục cách ly và bỏ vào một túi đặc biệt kín hơi để đem di hủy.
Tóm lại:
Bệnh nhiễm vi khuẩn
Ebola vẫn còn là một đại họa diệt vong tiềm ẩn cho loài người. Cho tới bây giờ
đã có một số công trình nghiên cứu về cách định bệnh và chữa trị cho bệnh này ,
nhưng chưa hoàn hảo. Điều trị bệnh nhiễm vi khuẩn Ebola hiện tại rất tốn kém vì
những trang bị phòng dịch bệnh lây lan. Tiến triển căn bệnh rất nguy hiểm với tỷ
lệ tử vong rất cao và lây lan mạnh nếu không giữ vệ sinh đúng phép . Có khi tiến
triển căn bệnh vượt quá tầm kiểm soát của y học vì hình như còn lệ thuộc vào hệ
thống miễn nhiễm của từng cá nhân và những điều chưa biết.
Berlin ngày
28.12.2014
BS Hoàng Thị Mỹ Lâm